Quá trình lên men, ép đùn cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám lúa mì trong khẩu phần ăn của lợn - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Quá trình lên men, ép đùn cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám lúa mì trong khẩu phần ăn của lợn

    Quá trình lên men cũng như ép đùn sẽ cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám lúa mì. Tuy nhiên, quá trình lên men của cám lúa mì có vẻ hiệu quả hơn so với ép đùn. Đây là một số kết luận từ một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Áo và Thụy Sĩ. Bởi vì lúa mì có thể được coi là loại ngũ cốc được sản xuất nhiều nhất trên toàn thế giới sau ngô, các nhà khoa học đã tiến hành một thử nghiệm về khả năng tiêu hoá của lợn với mục đích nghiên cứu những ảnh hưởng của quá trình lên men, ép đùn của cám lúa mì bao hàm trong một chế độ ăn cơ bản. Kết quả được đo lại bao gồm hệ số tiêu hóa biểu kiến (CTTAD) liên quan đến vật chất khô, chất hữu cơ, prôtêin thô, chất xơ thô, chiết xuất ête, tinh bột, năng lượng, phốt pho và canxi.

    Các nhà khoa học kết luận rằng, cám lúa mì lên men và ép đùn gây ra một số ảnh hưởng đáng kể tới hệ số tiêu hóa biểu kiến của một số chất dinh dưỡng thiết yếu, khoáng chất và năng lượng khi đưa vào thức ăn cơ bản cho lợn. Đặc biệt là, quá trình lên men dường như là chiến lược hiệu quả hơn. Các nhà nghiên cứu cho biết rằng, “tác động tích cực tới hệ số tiêu hóa biểu kiến của phốt pho và canxi chỉ có thể được quan sát thấy ở nhóm nuôi bằng cám lúa mì lên men”.

     

    Các nhà nghiên cứu đã đưa ra được kết luận này nhờ thực hiện một thử nghiệm, trong đó chín con lợn đang trong giai đoạn phát triển được đo lại hệ số CTTAD trong chế độ ăn cơ bản chứa các loại cám lúa mì khác nhau, và để chứng minh sự khác biệt tương đối về CTTAD trong chế độ ăn dưới dạng là kết quả của việc thay đổi cám lúa mì.

     

    Cám lúa mì được sử dụng dưới dạng tự nhiên, như cám ủ lên men với Lactobacillus paracasei và Lactobacillus plantarum và cám lúa mì ép đùn (EWB).

     

    Cám lúa mì biến thể bao gồm 200 g/kg trong chế độ ăn cơ bản thiếu phốt pho.

     

    Các kết quả thu được cho thấy CTTAD của vật chất khô tăng lên khi lợn ăn thức ăn có chứa cám lúa mì lên men (+2%), thay vì cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

     

    Tương tự như vậy, CTTAD của các chất hữu cơ cũng đã tăng lên với cám lúa mì lên men (+2%) so với cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

     

    Ngoài ra, CTTAD của các chất xơ thô (tăng 9%) đã được cải thiện với cám lúa mì lên men cũng như với cám lúa mì ép đùn, có liên quan đến cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

     

    Các CTTAD của tro đã được cải thiện với cám lúa mì lên men (+ 14%) so với cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

     

    Tương tự, các giá trị CTTAD của phốt pho và canxi cũng đã được nâng lên khi cho lợn ăn chế độ có cám lúa mì lên men. Phốt pho tiêu hóa được đã tăng lên trong nhóm cho ăn cám lúa mì lên men so với các nhóm được nuôi bằng cám lúa mì ở dạng gốc của nó (+ 35%) và cám lúa mì ép đùn (+ 53%).

     

    Tỷ lệ tiêu hóa canxi cũng đã thu được kết quả tương tự.

     

    Trong khi CTTAD của năng lượng đã tăng lên ở nhóm cho ăn cám lúa mì lên men (+3%) và cám lúa mì ép đùn (+2%) so với nhóm ăn cám lúa mì ở dạng gốc, cân bằng dinh dưỡng và CTTAD của tinh bột là không bị ảnh hưởng bởi các phương pháp xử lý.

     

    Tuy nhiên, CTTAD của chiết xuất ete đã tăng lên trong nhóm cho ăn cám lúa mì lên men (tăng 40%) và cũng có sự cải thiện ở nhóm cho ăn cám lúa mì ép đùn (+30%) so với nhóm cho ăn cám lúa mì ở dạng tự nhiên.

     

    Nghiên cứu được thực hiện bởi M Kraler, K Schedle, KJ Domig, H Michlmayr và W Kneifel của trường Đại học Tài nguyên thiên nhiên và Khoa học đời sống (BOKU), Vienna, Áo và D. Heine từ Buehler AG, Thụy Sĩ. Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Animal Feed Science and Technology.

     

    Tác giả: M.T. (Theo Allaboutfeed)

    Nguồn: Bộ NN&PTNT

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.