Vai trò của Methionine dạng bọc thoát qua dạ cỏ lên năng suất của bò sữa trong mùa hè và mùa thu ở Úc - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Vai trò của Methionine dạng bọc thoát qua dạ cỏ lên năng suất của bò sữa trong mùa hè và mùa thu ở Úc

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Ở Úc, các trang trại bò sữa chủ yếu nằm ở bang Victoria và Tasmania. Ở những khu vực này, hệ thống chăn nuôi chủ yếu dựa trên đồng cỏ với sự đóng góp chủ yếu của cỏ lúa mạch đen lâu năm.

     

    Thật vậy, trong những năm qua, hàm lượng cỏ ba lá của đồng cỏ đã giảm do sự phụ thuộc quá mức vào cỏ lúa mạch đen lâu năm. Chất lượng của đồng cỏ bị giảm và đã được bù đắp bằng các chất bổ sung vào thức ăn trong khẩu phần bò sữa (20-30% lượng vật chất khô (DM) ăn vào hàng ngày). Mức độ đậm đặc của thức ăn phụ thuộc vào chất lượng đồng cỏ chăn thả, giá sữa theo mùa, mục tiêu tổng chất khô trong sữa, giá ngũ cốc và các nguyên liệu protein khác. Mùa hè và mùa thu đưa đến một cơ hội tăng lợi nhuận của các trang trại do giá bán dựa vào vật chất khô trong sữa rất hấp dẫn. Tuy nhiên, cả năng suất sữa và chất lượng các thành phần sữa, đặc biệt là năng suất protein sữa có thể bị giảm do sự suy giảm chất lượng đồng cỏ trong cả mùa hè và mùa thu. Các chiến lược cải thiện về dinh dưỡng khác nhau được áp dụng để giảm thiểu sự sụt giảm về hiệu suất. Cân bằng axit amin là một cách tiếp cận hiệu quả để giảm thiểu tác động tiêu cực đến hiệu suất sản xuất. Do hàm lượng methionine chuyển hóa của cỏ và các nguyên liệu thô khác thường được sử dụng trong khẩu phần của bò sữa là rất thấp, methionine được coi là axit amin giới hạn đầu tiên trong hầu hết các khẩu phần của bò sữa. Sử dụng methionine dạng bọc thoát qua dạ cỏ cung cấp cơ hội duy nhất để đáp ứng sự thiếu hụt của methionine và cải thiện được hiệu quả sử dụng nitơ trong đàn bò sữa đang cho sữa. Do đó, hai thử nghiệm thương mại đã được tiến hành để kiểm tra tác dụng của methionine được bọc bởi ethyl-cellulose thoát qua dạ cỏ (Mepron®, Evonik Operations GmbH) đối với hàm lượng protein sữa, chất béo và chất khô không béo (SNF) trong mùa hè và mùa thu ở Úc.

    Sử dụng Mepron® trong mùa hè và mùa thu

     

    Hai thử nghiệm đã được tiến hành trong mùa hè và mùa thu tại hai trang trại bò sữa trên đồng cỏ ở Victoria, Úc để đánh giá tác động của Mepron® đối với năng suất và chất lượng sữa. Thử nghiệm 1 được tiến hành trên một trang trại với 250 bò sữa trong khi thử nghiệm 2 được tiến hành tại một trang trại khác với 675 bò sữa. Mepron® đã được thêm vào thức ăn tinh của bò sữa và được cung cấp bởi CopRice để đảm bảo liều hàng ngày là 15 g Mepron® cho mỗi con bò. Lượng thức ăn tinh với Mepron® hàng ngày ở mức 6 kg/con bò sữa đang cho sữa, được chia ra trong hai bữa ăn vào buổi sáng và buổi chiều trong mùa hè (tháng 12 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020) và mùa thu (tháng 3 đến tháng 5 năm 2020). Dữ liệu năng xuất sữa và chất khô trong sữa của sáu tháng nêu trên được so sánh với dữ liệu của mùa hè năm trước (tháng 12 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019) và mùa thu năm trước (tháng 3 đến tháng 5 năm 2019) tại cùng một trang trại bò sữa.

     

    Giai đoạn đối chứng

    Mùa hè: 12/2018 – 02/2019

    Mùa thu: 03/2019 – 052019

    Thức ăn không có Mepron®

    Giai đoạn Mepron®

    Mùa hè: 12/2019 – 02/2020

    Mùa thu: 03/2020 – 05/2020

    Thức ăn với Mepron®

     

    Tác dụng của việc bổ sung Mepron® đối với hiệu suất sản xuất

     

    Bổ sung Mepron® vào trong thức ăn của bò đã cải thiện hiệu quả kinh tế không chỉ trong việc tăng sản lượng sữa mà còn cải thiện năng suất chất khô trong sữa ở cả mùa hè và mùa thu (Hình 1, Bảng 1 và 2).

    Hình 1: Năng suất sữa bình quân của các trang trại bò sữa trong thời gian đối chứng (12/2018 – 5/2019) và thời gian bổ sung Mepron® (tháng 12/2019 – 5/2020) trong thử nghiệm 1 và 2. Các cột cuối cùng cho mỗi thử nghiệm đại diện cho năng suất sữa trung bình (Ave) trong suốt nghiên cứu.

     

     Năng suất sữa trung bình hàng ngày được cải thiện 2,9 kg/bò trong thử nghiệm 1 và 1,5 kg/bò trong thử nghiệm 2 ở giai đoạn bổ sung Mepron® so với giai đoạn đối chứng.

     

    Bảng 1 cho thấy sự cải thiện protein sữa, chất béo sữa và SNF với việc bổ sung Mepron® trong thử nghiệm 1 trong những tháng mùa hè và mùa thu, ngoại trừ tháng 3 không có sự khác biệt về protein sữa và SNF. Protein sữa trung bình là 3,21% trong giai đoạn đối chứng và là 3,45% trong giai đoạn bổ sung Mepron®. Hàm lượng chất béo sữa trung bình trong giai đoạn bổ sung Mepron® cao hơn 0,25% so với giai đoạn đối chứng. Hàm lượng SNF trong sữa giao động từ 8,55-9,08% với hàm lượng trung bình là 8,85% trong giai đoạn đối chứng trong khi SNF là 8,94-9,28% với hàm lượng trung bình là 9,14% trong giai đoạn bổ sung Mepron®.

     

    Bảng 1: Protein sữa trung bình, chất béo và % chất khô không béo của trang trại bò sữa trong giai đoạn đối chứng (tháng 12 năm 2018 – tháng 5 năm 2019) và giai đoạn bổ sung Mepron® (tháng 12 năm 2019 – tháng 5 năm 2020) trong thử nghiệm 1

    Thời gian

    Protein sữa %

    Chất béo %

    Khô không béo %

    Đối chứng

    Mepron®

    Đối chứng

    Mepron®

    Đối chứng

    Mepron®

    12/2018

    3.00

    3.41

    4.18

    4.34

    8.70

    9.15

    01/2019

    2.99

    3.44

    4.07

    4.55

    8.55

    9.14

    02/2019

    3.11

    3.44

    4.13

    4.54

    8.73

    9.18

    03/2019

    3.35

    3.33

    4.32

    4.56

    8.96

    8.94

    04/2019

    3.41

    3.50

    4.52

    4.69

    9.05

    9.13

    05/2019

    3.40

    3.59

    4.27

    4.33

    9.08

    9.28

    Trung bình

    3.21

    3.45

    4.25

    4.50

    8.85

    9.14

    Cải thiện %

    +7.5

    +6.0

    +3.3

     

    Bảng 2 cho thấy việc sử dụng Mepron® trong thức ăn tinh đậm đặc trong thử nghiệm 2 cũng cải thiện protein sữa, chất béo và SNF trong cả những tháng mùa hè và mùa thu. Hàm lượng protein sữa dao động từ 2,95-3,52% ở giai đoạn đối chứng trong khi ở giai đoạn bổ sung Mepron® là 3,41-3,66%. Hàm lượng chất béo sữa trung bình tăng từ 4,23 lên 4,55% khi bổ sung Mepron®. Protein sữa, chất béo và SNF trung bình tăng lần lượt 7,0; 7,5 và 3,6%, với việc bổ sung Mepron® trong thức ăn tinh đậm đặc cho bò.

     

    Bảng 2: Protein sữa trung bình, chất béo và % chất khô không béo của trang trại bò sữa trong giai đoạn đối chứng (tháng 12 năm 2018 – tháng 5 năm 2019) và giai đoạn bổ sung Mepron® (tháng 12 năm 2019 – tháng 5 năm 2020) trong thử nghiệm 2

    Thời gian

    Protein sữa %

    Chất béo %

    Khô không béo %

    Đối chứng

    Mepron®

    Đối chứng

    Mepron®

    Đối chứng

    Mepron®

    12/2018

    2.95

    3.37

    4.13

    4.33

    8.64

    9.09

    01/2019

    2.95

    3.35

    3.94

    4.38

    8.47

    9.08

    02/2019

    3.18

    3.37

    4.12

    4.42

    8.78

    9.09

    03/2019

    3.32

    3.49

    4.41

    4.77

    8.92

    9.14

    04/2019

    3.52

    3.57

    4.52

    4.65

    9.13

    9.23

    05/2019

    3.52

    3.66

    4.27

    4.75

    9.17

    9.38

    Trung bình

    3.24

    3.47

    4.23

    4.55

    8.85

    9.17

    Cải thiện %

    +7.0

    +7.5

    +3.6

     

    Kết luận

     

    Dựa trên kết quả của hai thử nghiệm thương mại này, có thể kết luận rằng sử dụng Mepron® mang đến hiệu quả sử dụng thức ăn của bò sữa không chỉ để giảm thiểu hoặc loại bỏ việc mất năng suất mà còn cải thiện năng suất sữa và tổng chất khô sữa trong đàn bò được chăn thả trên đồng cỏ vào mùa hè và mùa thu. Bổ sung Mepron® cải thiện năng suất sữa trung bình hàng ngày (1,5-2,9 kg/bò), protein sữa (7 đến 7,5%), chất béo sữa (6 đến 7,5%) và SNF (3,3 đến 3,6%) so với nhóm đối chứng trong cả hai thử nghiệm.

     

    Mubarak Ali1,*, Shyamal Das2, Jessie Guyader3 and Claudia Parys3

    1Nutrition & Care, Evonik (SEA) Pte Ltd, Singapore

    2CopRice, Finlay Road, Tongala, Victoria 3621, Australia

    3Evonik Operations, GmbH, Germany

    *mubarak.ali@evonik.com

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.