Chăn nuôi đang đối mặt với cơn khủng hoảng kháng sinh - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Chăn nuôi đang đối mặt với cơn khủng hoảng kháng sinh

    Thời gian qua, ngành chăn nuôi Việt Nam nhiều phen đối mặt với những cơn khủng hoảng thừa, giá heo, gà rớt thê thảm. Một trong những nguyên nhân chính là chất lượng sản phẩm chăn nuôi, sức cạnh tranh khi bước vào hội nhập. Thịt heo, thịt gà Việt Nam hầu như chưa xuất khẩu được hoặc chỉ mới xuất khẩu với tỷ lệ rất thấp.

     

    Chăn nuôi đang đối mặt với cơn khủng hoảng kháng sinhTS.Michel Guillaume, Giám đốc kỹ thuật của Tập đoàn Olmix ở châu Á (TP.Hồ Chí Minh) được xem là chuyên gia dày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi. Vừa qua, ông đã có mặt tại hội thảo về bệnh dịch tả heo châu Phi để hướng dẫn và tư vấn cho hàng trăm nông dân Đồng Nai về phương pháp phòng tránh “căn bệnh lịch sử” này ở con heo. Về lâu dài, theo TS Michel Guillaume, ngành chăn nuôi Việt Nam cần hướng tới một nền chăn nuôi công nghiệp sạch, an toàn. Và điều này cần bắt đầu bằng việc nói không với kháng sinh.

     

    Hệ lụy khôn lường

     

    Từ khi nào ngành chăn nuôi sử dụng kháng sinh, thưa ông?

     

    – Từ năm 1948, con người trên thế giới bắt đầu nhận ra rằng việc sử dụng kháng sinh sẽ không làm vật nuôi bị bệnh. Nước đầu tiên sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi là Mỹ. Thời điểm đó Mỹ có nhu cầu sử dụng thức ăn từ nguyên liệu thịt heo, thịt gà rất là nhiều để phục vụ cho chiến tranh. Ngoài ra, thực phẩm từ thịt của nước này còn được xuất khẩu đi nhiều nước, như: Trung Quốc, Thái Lan, Philippines… Mục tiêu của chăn nuôi là làm sao để thịt có giá rẻ và mang lại nhiều lợi ích tối đa.

     

    TS.Michel Guillaume (quốc tịch Pháp) là một chuyên gia uy tín trong ngành chăn nuôi thế giới với hơn 35 năm kinh nghiệm về dinh dưỡng trong chăn nuôi. Ông từng làm việc tại hơn 20 quốc gia ở châu Âu, châu Mỹ và châu Á. Hiện ông là cố vấn cho Tập đoàn Olmix (Pháp) tại Việt Nam. Ông là giảng viên thường xuyên tại nhiều trường đại học ở Đông Á.

     

    Theo ông, thực trạng lạm dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi như thế nào?

     

    – Ước tính có khoảng 45 ngàn tấn kháng sinh được sử dụng mỗi năm trên toàn thế giới trong ngành chăn nuôi. Trong đó, có đến 90% sản lượng thuốc kháng sinh được sử dụng trong nuôi heo. Trong đó, 21 ngàn tấn thuốc kháng sinh được sử dụng cho con heo ngay từ giai đoạn cai sữa. Để giảm sử dụng kháng sinh cho heo ở giai đoạn này thì cần kéo dài thời gian cai sữa…

     

    Thực trạng này với riêng ngành chăn nuôi ở Việt Nam?

     

    – Các nước châu Á bắt đầu quan tâm đến chăn nuôi không kháng sinh bằng việc sử dụng các chất thay thế kháng sinh như tôi nói ở trên. Nhiều nước trên thế giới nhận thức về tác hại của việc lạm dụng kháng sinh và hạn chế nó. Cụ thể như với thủy sản, nhiều nước chỉ trộn 100g thuốc kháng sinh trên 1 tấn thức ăn, Việt Nam đang sử dụng liều lượng cao nhiều lần so thế giới. Sự lạm dụng kháng sinh nhiều đến mức không thể nào ngăn chặn được bởi vì chưa coi trọng về an toàn sinh học. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam chưa thể xuất khẩu được mặt hàng thịt heo. Hiện nay, thịt gà cũng mới xuất khẩu được rất ít cũng do nguyên nhân này. Với thủy sản cũng vậy, để xuất khẩu được, người nuôi trồng phải tuân theo tiêu chuẩn rất khắt khe của châu Âu về vấn đề sử dụng thuốc kháng sinh.

     

    Tác hại của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi là gì?

     

    – Với tốc độ phát triển nhanh về dân số thì dịch bệnh cũng phát triển mạnh. Trong vòng 2 năm đầu tiên, việc sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho vật nuôi rất là tốt. Nhưng sau đó, dịch bệnh trên vật nuôi đã bắt đầu xuất hiện các đề kháng. Và khi con người ăn các nguồn thực phẩm chứa chất kháng sinh, khi họ bị bệnh sẽ xảy ra tình trạng lờn thuốc. Cơ thể con người sẽ xuất hiện tình trạng kháng thuốc và đến lúc không còn có loại thuốc kháng sinh nào còn có tác dụng.

     

    Hậu quả này là rất nghiêm trọng vì tốc độ con người sản xuất ra vaccine để chữa bệnh không nhanh bằng sự phát triển của các loại bệnh. Đây là nỗi lo lắng rất lớn của nền y tế thế giới vì hiện có rất nhiều người đã chết trong các bệnh viện vì họ bị kháng thuốc điều trị. Chỉ riêng nước Mỹ, người ta ước tính có khoảng 500 ngàn người chết do họ bị kháng thuốc vì có rất nhiều loại thuốc kháng sinh không có tác dụng trên cơ thể người bệnh.

     

    Nên thay đổi từ cách nghĩ

     

    Đến lúc nào, con người mới nhận ra sự nguy hại của việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi?

     

    – Từ năm 1985, ở châu Âu có 1 nhóm khoảng 10 chuyên gia bắt đầu quan tâm đến vấn đề đề kháng kháng sinh và nghiên cứu tìm ra và chứng minh được rằng những acid hữu cơ là chất có khả năng thay thế kháng sinh. Bắt đầu năm 1995, ở châu Âu bắt đầu ngưng việc sử dụng kháng sinh một cách có hệ thống và bắt đầu tồn tại những sản phẩm thịt heo, gà sạch hoàn toàn không có thuốc kháng sinh. Để có được những sản phẩm không kháng sinh, người chăn nuôi có thể sử dụng những chất thay thế kháng sinh được chiết xuất từ tảo hoặc acid hữu cơ.

     

    Giải pháp cho vấn đề lạm dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi là gì, thưa ông?

     

    – Chỉ nên sử dụng kháng sinh khi đó là giải pháp cuối cùng và hiệu quả của nó được bảo đảm thông qua việc sử dụng đều đặn, hợp lý và có kiểm soát. Ngoài ra, để hạn chế sử dụng kháng sinh từ từ, người chăn nuôi phải tuân thủ các quy trình an toàn sinh học một cách tuyệt đối. Tôi lấy ví dụ, người nuôi hiện chỉ quan tâm cho con heo ăn thức ăn càng sớm thì tốc độ tăng trưởng sẽ càng nhanh. Họ quan niệm rằng heo con được sử dụng kháng sinh càng sớm thì càng tốt nên sản lượng kháng sinh được sử dụng cho heo trong giai đoạn cai sữa là rất lớn như tôi đã nói ở trên.

     

    Nhưng thực ra không phải như vậy. Có một giải pháp là người nuôi có thể kéo dài thời gian cai sữa cho con heo là thay vì cho heo con cai sữa vào ngày 21 như cách thông thường thì người nuôi nên để đến 28 ngày mới cho cai sữa. Ở đây, người nuôi chỉ cần thay đổi một chút trong quy trình nuôi để hệ tiêu hóa của con heo hoàn chỉnh hơn thì mới cho cai sữa và ăn thức ăn sẽ hạn chế được về bệnh đường ruột thì sẽ giảm được một lượng rất lớn kháng sinh.

     

    Ông có thể cho ý kiến đánh giá về trình độ chăn nuôi của Việt Nam so với mặt bằng thế giới?

     

    – Tôi lấy ví dụ với con heo, năng suất của chăn nuôi ở Việt Nam còn khá thấp so với thế giới. Trong đó, có lý do là thời tiết của Việt Nam không quá ưu đãi cho chăn nuôi vì chúng ta có nhiệt độ và độ ẩm rất cao. Ngay cả với những trại nuôi thuộc hàng tốt nhất ở Việt Nam, 1 con heo nái có thể sản xuất ra 27-28 con heo con/năm, nhưng ở Pháp hiện nay 1 con heo mẹ có thể sản xuất ra được 33 con/năm, ở Đan Mạch là 38 con…

     

    Nhiều nước, việc tuân thủ quy trình chăn nuôi được đưa vào luật, như ở Đan Mạch có bộ luật hẳn hoi là phải đến 28 ngày heo con mới được cai sữa. Việt Nam cũng nên có hẳn bộ luật về quy trình chăn nuôi để mọi người buộc phải tuân theo.

     

    Xin cảm ơn ông!

     

    Bình Nguyên

    Nguồn: Báo Đồng Nai

    Từ khi bùng phát bệnh dịch tả heo châu Phi, TS.Michel Guillaume luôn kín lịch tham gia các hội thảo chuyên ngành tại Việt Nam và các nước về căn bệnh nguy hiểm này. Ông luôn nhấn mạnh với người chăn nuôi là giải pháp phòng căn bệnh cực kỳ nguy hiểm này là phải xây dựng được hàng rào an toàn sinh học để cách ly hẳn trang trại chăn nuôi với môi trường bên ngoài. Trong đó, việc quản lý con người ra vào trang trại rất quan trọng vì đây là một trong những nguyên nhân gây lây lan căn bệnh nguy hiểm này.

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.