Tổng quan thị trường thức ăn chăn nuôi thế giới tháng 11/2020 - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Tổng quan thị trường thức ăn chăn nuôi thế giới tháng 11/2020

    Giá TĂCN & NL thế giới tháng 11/2020 giảm trở lại sau chuỗi tăng 5 tháng liên tiếp, song vẫn tăng so với cùng tháng năm ngoái.Nguyên nhân chính do nhu cầu toàn cầu giảm, đặc biệt là nhu cầu từ Trung Quốc suy giảm, bất chấp nguồn cung thắt chặt bởi điều kiện thời tiết khô tại Nga, Mỹ và Argentina ảnh hưởng đến năng suất cây trồng ngô, đậu tương và lúa mì tại khu vực này. Trong khi đó, ngành chăn nuôi của Trung Quốc – nước tiêu thụ TĂCN & NL hàng đầu thế giới – dần hồi phục sau dịch tả lợn Châu Phi đã khiến hơn 1/2 số lượng đàn lợn của nước này bị tiêu hủy, đẩy nhu cầu TĂCN & NL tăng và hạn chế đà suy giảm giá.

     

    Ngô: 

     

    Trong tháng 11/2020, giá ngô tại Chicago ở mức 167,43 USD/tấn, giảm 10,36% so với tháng 10/2020 song tăng 0,66% so với tháng 11/2019. Nguyên nhân chính là do nhu cầu từ Trung Quốc giảm, cùng với đó là giá dầu thô giảm khiến nhu cầu ethanol sản xuất từ ngô suy giảm.

     

    Lúa mì: 

     

    Giá lúa mì biến động trái chiều, giảm tại thị trường Chicago và Nga song tăng tại Pháp, do nhu cầu suy giảm bất chấp nguồn cung toàn cầu giảm bởi thời tiết khô tại Nga, Mỹ và Argentina, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng lúa mì. Trên sàn Chicago, giá lúa mì trong tháng 11/2020 giảm 4,81% so với tháng 10/2020 song tăng 4,41% so với tháng 11/2019 lên 233,4 USD/tấn. Đồng thời, giá xuất khẩu lúa mì loại 12,5% protein tại Nga kỳ hạn tháng 12/2020 trong tuần tính đến ngày 20/11/2020 giảm 2 USD xuống 252 USD/tấn, FOB, theo xu hướng giá lúa mì trên sàn Chicago giảm. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn Euronext (Pháp) tăng 1 euro (tương đương 0,4%) lên 210,25 euro (249,4 USD)/tấn, do điều kiện thời tiết bất lợi tại một số nước xuất khẩu lúa mì chủ yếu.

     

    Đậu tương: 

     

    Cùng với xu hướng giá ngô và lúa mì, giá đậu tương trên sàn Chicago trong tháng 11/2020 giảm 6,4% so với tháng 10/2020 song tăng 13,23% so với tháng 11/2019 lên 425,2 USD/tấn. Nguyên nhân chính do vụ thu hoạch đậu tương bội thu tại Mỹ – nước có sản lượng đậu tương hàng đầu thế giới và là nước xuất khẩu đậu tương lớn thứ 2 thế giới, trong khi nhu cầu của Trung Quốc – nước tiêu thụ TĂCN hàng đầu thế giới – suy giảm.

     

    Nhập khẩu đậu tương của Trung Quốc trong tháng 10/2020 đạt 8,69 triệu tấn, giảm 11,3% so với 9,8 triệu tấn tháng 9/2020 song tăng 40,6% so với 6,18 triệu tấn tháng 10/2019. Tính chung, trong 10 tháng năm 2020 nhập khẩu đậu tương Trung Quốc đạt 83 triệu tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái, bao gồm các nguồn từ Mỹ, Brazil, Argentina và Uruguay. Dự kiến nhập khẩu đậu tương của nước này trong tháng 11/2020 đạt 9,7 triệu tấn và tháng 12/2020 đạt 7,8 triệu tấn. Dự kiến tổng nhập khẩu đậu tương của Trung Quốc năm 2020 sẽ đạt 101-105 triệu tấn, tăng so với 88,6 triệu tấn năm 2019.

    Khô đậu tương: 

     

    Giá khô đậu tương tại thị trường Chicago trong tháng 11/2020 giảm 3,06% so với tháng 10/2020 song tăng 29,95% so với tháng 11/2019 lên 451,3 USD/tấn, do nhu cầu toàn cầu tăng chậm lại, đặc biệt từ Trung Quốc – nước có sản lượng khô đậu tương dự kiến đứng đầu thế giới năm 2020 (74 triệu tấn) và hầu như không nhập khẩu, đứng thứ hai là Mỹ đạt 45,8 triệu tấn. Trong khi đó, Việt Nam đứng thứ 2 thế giới sau EU-27 (18,75 triệu tấn) về nhập khẩu khô đậu tương và dự kiến đạt 5,35 triệu tấn trong năm 2020. Tồn trữ khô đậu tương của Trung Quốc tính đến ngày 12/11/2020 đạt 994.500 tấn, giảm từ mức cao kỷ lục 1,27 triệu tấn tính đến cuối tháng 8/2020.

     

    Bột cá: 

     

    Giá bột cá tại thị trường Peru trong tháng 11/2020 giảm 0,74% so với tháng 10/2020 song tăng 4,9% so với tháng 11/2019 lên 1.427,62 USD/tấn. Nguyên nhân chính do nhu cầu bột cá suy giảm sau dịch tả lợn châu Phi, cùng với đó là sản lượng tăng.

     

    Dự kiến tổng xuất khẩu bột cá toàn cầu năm 2020 sẽ đạt 2,67 triệu tấn, tăng 10,01% so với mức 2,427 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, Peru đứng hàng đầu đạt 1,1 triệu tấn tăng 23,6% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng thứ 2 là Chile đạt 210 nghìn tấn giảm 2,3%; Việt Nam đứng thứ 3 đạt 165 nghìn tấn – chiếm gần 36% sản lượng tăng 3,1%, sau cùng là Ma rốc đạt 156 nghìn tấn tăng 0,65%, tất cả đều so với cùng kỳ năm ngoái.

     

    DỰ BÁO

     

    Mặc dù, dịch tả lợn châu Phi trên thế giới đã được khống chế và kiểm soát thành công, một số nước vẫn phải đối mặt với tình trạng thiếu thịt nghiêm trọng và có nhu cầu thúc đẩy mạnh việc tái đàn. Đặc biệt Trung Quốc, dự kiến nhập khẩu thịt lợn của nước này năm 2020 sẽ tăng 32,7% so với năm trước lên 2,8 triệu tấn. Tuy nhiên, mối lo ngại làn sóng nhiễm Covid-19 thứ hai tăng, thúc đẩy các biện pháp đóng cửa mới và ảnh hưởng đến sự phục hồi nền kinh tế. Thêm vào đó là quan hệ thương mại Mỹ – Trung Quốc vẫn căng thẳng, khiến xuất khẩu nông sản của Mỹ sang Trung Quốc suy giảm. Do vậy, nhu cầu TĂCN & NL trên toàn cầu suy giảm, dẫn đến giá NL TĂCN thế giới trong tháng 12/2020 sẽ giảm.

     

    Ngô

     

    USDA dự báo, sản lượng ngô thế giới niên vụ 2020/21 tăng lên 1.144,63 triệu tấn, giảm 14,19 triệu tấn so với ước tính tháng trước đó, song tăng 28,44 triệu tấn so với ước tính niên vụ trước, do thời tiết thuận lợi hỗ trợ năng suất cây trồng tại Mỹ cùng với diện tích trồng trọt tăng mạnh.

     

    Tuy nhiên, dự trữ ngô thế giới cuối niên vụ chỉ đạt 291,43 triệu tấn, giảm 11,9 triệu tấn so với đầu vụ do dự trữ tại thị trường Trung Quốc giảm mạnh 9,02 triệu tấn; Mỹ giảm 7,45 triệu tấn và các quốc gia Đông Nam Á giảm 0,01 triệu tấn. Các thị trường xuất khẩu có lượng dự trữ tăng bao gồm Argentina, Brazi và Nam Phi.

     

    Khô đậu tương

     

    USDA dự báo, tổng sản lượng khô đậu tương thế giới niên vụ 2020/21 sẽ đạt 252,32 triệu tấn, giảm 1 triệu tấn so với dự báo tháng trước đó song tăng 10,11 triệu tấn (tương đương 4,2%) so với ước tính 242,21 triệu tấn niên vụ trước, do sản lượng đậu tương thế giới tăng. Nhu cầu tiêu thụ khô đậu tương toàn cầu là 250,19 triệu tấn, lượng khô đậu tương toàn cầu dư thừa 2,13 triệu tấn.

     

    Brazil vượt Mỹ trở thành nước xuất khẩu khô đậu tương đứng thứ 2 thế giới sau Argentina do sản lượng đậu tương tăng cao. Lượng dư thừa sau khi trừ tiêu thụ nội địa của nước này là 16,78 triệu tấn, cao hơn nhiều so với lượng dư thừa của Mỹ là 11,89 triệu tấn; song nước có lượng khô đậu tương dư thừa nhiều nhất là Argentina với 27,5 triệu tấn do tiêu thụ nội địa thấp.

     

    Ngược lại, dự báo niên vụ 2020/21 những thị trường có lượng thiếu hụt khô đậu tương nhiều nhất là EU với 17,7 triệu tấn; Đông Nam Á với 17,1 triệu tấn và Mexico với 1,92 triệu tấn.

     

    Đậu tương

     

    USDA dự báo, tổng sản lượng đậu tương thế giới niên vụ 2020/21 sẽ đạt 362,64 triệu tấn, giảm 5,83 triệu tấn so với dự báo tháng trước đó song tăng 25,95 triệu tấn (tương đương 7,7%) so với ước tính 336,69 triệu tấn niên vụ trước, do dự báo thời tiết thuận lợi tại khu vực trồng trọng điểm và diện tích trồng đậu tương tại Mỹ tăng. Nhu cầu tiêu thụ đậu tương toàn cầu là 369,03 triệu tấn, lượng đậu tương toàn cầu thiếu hụt 6,39 triệu tấn.

     

    USDA dự báo sản lượng đậu tương toàn cầu niên vụ 2020/21 sẽ đạt 362,64 triệu tấn, tăng 25,95 triệu tấn (tương đương 7,7%) so với 336,69 triệu tấn niên vụ 2019/20. USDA tăng dự báo sản lượng đậu tương Mỹ, Argentina, Brazil, Paraguay, EU-27 và Mexico lên lần lượt là 113,5 triệu tấn; 51 triệu tấn; 133 triệu tấn; 10,25 triệu tấn; 2,75 triệu tấn và 0,35 triệu tấn so với 96,67 triệu tấn; 49 triệu tấn; 126 triệu tấn, 9,9 triệu tấn; 2,62 triệu tấn và 0,24 triệu tấn ước tính niên vụ trước; song giảm sản lượng đậu tương Trung Quốc và Đông Nam Á xuống lần lượt là 17,5 triệu tấn và 0,6 triệu tấn so với 18,1 triệu tấn và 0,61 triệu tấn ước tính niên vụ trước đó.

     

    Tiêu thụ đậu tương toàn cầu niên vụ 2020/21 dự báo sẽ đạt 369,03 triệu tấn, giảm 1,56 triệu tấn ước tính tháng trước và tăng 15,16 triệu tấn (tương đương 4,3%) so với 353,87 triệu tấn niên vụ 2019/20. Tiêu thụ đậu tương trong lĩnh vực TĂCN niên vụ 2020/21 sẽ đạt 320,89 triệu tấn, giảm 1,53 triệu tấn so với ước tính tháng trước song tăng 12,62 triệu tấn (tương đương 4%) so với 308,27 triệu tấn niên vụ 2019/20.

     

    USDA dự báo xuất khẩu đậu tương toàn cầu niên vụ 2020/21 đạt 167,82 triệu tấn, giảm 0,06 triệu tấn so với ước tính tháng trước song tăng 3,15 triệu tấn (tương đương 1,9%) so với 164,67 triệu tấn niên vụ 2019/20. Trong đó, USDA nâng dự báo xuất khẩu đậu tương Mỹ và Paraguay lần lượt lên 59,87 triệu tấn và 6,3 triệu tấn so với niên vụ 2019/20, song giảm dự báo xuất khẩu đậu tương Argentina và Brazil xuống 7 triệu tấn và 85 triệu tấn.

     

    Lúa mì

     

    USDA dự báo, trong niên vụ 2020/21, tổng sản lượng lúa mì thế giới sẽ đạt 772,38 triệu tấn, giảm 0,7 triệu tấn so với ước tính tháng trước song tăng 7,44 triệu tấn so với niên vụ trước do diện tích trồng tại Nga – nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu thế giới – tăng, mặc dù thời tiết khô tại Nga, Ucraina và sương giá tại Argentina ảnh hưởng đến năng suất cây trồng tại những nước này.

     

    Nhu cầu tiêu thụ lúa mì toàn cầu sẽ đạt 752,68 triệu tấn, dư thừa khoảng 19,7 triệu tấn.

     

    USDA giảm dự báo sản lượng lúa mì Mỹ năm 2020/21 từ 52,58 triệu tấn xuống 49,69 triệu tấn, song tăng dự báo xuất khẩu và nhập khẩu lên 26,54 triệu tấn và 3,4 triệu tấn so với 26,28 triệu tấn và 2,86 triệu tấn ước tính năm trước.

     

    USDA dự báo xuất khẩu lúa mì toàn cầu niên vụ 2020/21 đạt 190,79 triệu tấn, giảm 1,04 triệu tấn (tương đương 0,54%) so với 191,83 triệu tấn niên vụ 2019/20.

     

    Tổng hợp: THỦY CHUNG

    Trung tâm TTCN&TM

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.