Do mối nguy tiềm ẩn liên quan đến vấn đề sức khỏe, cũng như chi phí cao của các nguồn đạm động vật được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi, nhu cầu về nguồn đạm đậu nành chế biến đặc biệt đang ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Trong 20 năm qua, các nghiên cứu khoa học về đạm đậu nành chế biến dùng làm thức ăn cho heo con ngày càng được chú trọng. Như hiển thị trong hình các đám mây từ khóa bên dưới, các từ khóa liên quan đến heo cai sữa (Weaned Pigs) là “năng suất”(“performance”), “ruột” (“intestinal”) và “tăng trưởng” (“growth”), trong khi từ khóa liên quan đến đạm đậu nành chế biến đặc biệt là “khả năng tiêu hóa” (“digestibility”). Đạm đậu nành chế biến đặc biệt có khả năng tiêu hóa cao là nguyên liệu thay thế hiệu quả trong thức ăn heo con, có thể thay thế hầu hết các nguồn đạm động vật đắt tiền trong khi vẫn duy trì tốt sức khỏe đường ruột và năng suất vật nuôi khi áp lực của việc loại bỏ kháng sinh và hạn chế sử dụng oxit kẽm ngày càng lớn.Tuy nhiên, không phải tất cả các sản phẩm đạm đậu nành đã qua chế biến hoặc xử lý đều giống nhau về khả năng tiêu hóa và kiểm soát tiêu chảy cho heo con.
TIẾN TRÌNH LÊN MEN CHẤT ĐẠM TRÊN HEO CON
Do hệ tiêu hóa còn non nớt, heo con cai sữa rất dễ mắc bệnh và nhạy cảm với stress. Tỷ lệ tiêu chảy trên heo con cai sữa cao là do các bất lợi đến từ yếu tố môi trường, sinh lý và dinh dưỡng. Động vật non cần khẩu phần có hàm lượng đạm tương đối cao để có thể đáp ứng nhu cầu tổng hợp chất đạm của cơ thể. Tuy nhiên, chúng không thể sản xuất đủ các men tiêu hóa nội sinh để sử dụng một cách hiệu quả các chất đạm có trong khẩu phần mà chúng tiêu thụ. Hệ quả là, một lượng lớn các chất đạm không được tiêu hóa sẽ đi qua ruột non và xuống đến ruột già, nơi các vi khuẩn bắt đầu tiến trình sử dụng các chất đạm này để phát triển (được gọi là tiến trình lên men). Tiến trình lên men chất đạm ở ruột già có thể dẫn đến sự hình thành các chất chuyển hóa có khả năng gây độc cho cơ thể như amoniac, amin, các phenol dễ bay hơi và indol, từ đó làm giảm năng suất cũng như chất lượng phân của heo con (Jha và Berrocoso 2016).
Để giảm thiểu nguy cơ này, các chuyên gia dinh dưỡng vật nuôi của Cargill đã phát triển ra một chỉ tiêu dinh dưỡng có tên gọi là Swine Gut Fermentable Protein (SW GUT FP), có nghĩa là hàm lượng đạm có thể lên men ở ruột heo. Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá chính xác lượng đạm không tiêu hóa được và trở thành nguồn nguyên liệu sẵn có cho quá trình lên men ở ruột già. Bằng cách tổ hợp công thức dựa trên SW GUT FP, chúng tôi có thể giảm thiểu lượng đạm có thể lên men có trong khẩu phần, thông qua đó, nâng cao chất lượng phân và tăng năng suất của heo con.
SW GUT FP là chỉ số dự báo hiệu quả cho các vấn đề liên quan đến tiêu chảy và mức tăng trưởng của heo con.
Kết quả nghiên cứu của Cargill (2012) trên heo con ở ngày thứ 7 và ngày thứ 21 sau cai sữa (lần lượt là 31 ngày tuổi và 45 ngày tuổi) đã chứng minh mối tương quan thuận giữa SW GUT FP và tỷ lệ tiêu chảy (Hình 1). Kết quả cho thấy, mức SW GUT FP trong khẩu phần càng thấp thì tỷ lệ tiêu chảy càng thấp và ngược lại. Tổng lượng đạm có thể lên men mà heo tiêu thụ sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố: lượng SW GUT FP có trong thức ăn và lượng thức ăn heo tiêu thụ. Do đó, điều quan trọng cần phải lưu ý khi tổ hợp khẩu phần cho heo con dựa trên SW GUT FP là phải xem xét đến lượng thức ăn heo tiêu thụ.
Hình 1: Mối tương quan giữa đạm lên men và tỷ lệ tiêu chảy trên heo con sau cai sữa
(Cargill research 2012)
Ngoài tác động tích cực đến chất lượng phân, SW GUT FP còn thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của heo con. Kết quả từ một nghiên cứu khác của Cargill (2013) cho thấy tăng trọng bình quân ngày (ADG) tăng 12% và chỉ số tăng trọng:thức ăn (G: F) tăng 6% ở ngày thứ 21 sau cai sữa (35 ngày tuổi) trên những heo cai sữa tiếp nhận khẩu phần có mức SW GUT FP thấp so với những con được cho ăn khẩu phần có mức SW GUT FP cao (Hình 2).
Hình 2: Tác động tích cực của mức SW GUT FP thấp trên năng suất của heo con
(Cargill research 2013)
Ảnh hưởng của mức SW GUT FP lên Microbiome của hệ vi sinh vật đường ruột
Microbiome là tập hợp toàn bộ hệ gen của các vi sinh vật hiện diện trong một môi trường cụ thể, có nghĩa là tập hợp tất cả vật chất di truyền của các vi sinh vật này (gồm cả ADN và ARN). Phân tích tổng hợp của Cargill (2020) đã cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về sự ảnh hưởng của các mức SW GUT FP lên Microbiome của hệ vi sinh vật đường ruột. Phân tích này cho thấy, trên những heo con được cho ăn khẩu phần có mức SW GUT FP thấp, các vi khuẩn liên quan đến việc sản xuất axit béo chuỗi ngắn (SCFA) hiện diện trong ruột với số lượng nhiều hơn. Trong khi đó, trên những heo con được cho ăn khẩu phần có mức SW GUT FP cao, số lượng các vi khuẩn sử dụng axit amin làm nguồn năng lượng lại xuất hiện nhiều hơn (Hình 3). Quan sát này cho thấy, mức SW GUT FP thấp có thể dẫn đến sự phát triển của vi khuẩn có lợi và tăng cường sức khỏe đường ruột của thú non.
Hình 3: Ảnh hưởng của mức SW GUT FP lên cấu hình Microbiome của hệ vi sinh vật đường ruột
(Cargill research 2020)
Hơn nữa, các vi khuẩn có lợi có thể sử dụng các chất bột đường không tiêu hóa được (chẳng hạn như các oligosaccharide và polysaccharide không phải tinh bột) làm nguồn năng lượng cho mình. Điều này có thể góp phần đáng kể vào việc điều hòa hệ vi sinh vật, sản xuất ra nhiều acid béo mạch ngắn (SCFA) hơn, chẳng hạn như axetat, propionat hoặc butyrat. Những SCFA này sẽ hỗ trợ bảo vệ tính toàn vẹn của ruột và sự phát triển của các tế bào biểu mô (Zhou và cộng sự, 2014; Jha và Berrocoso 2016).
PROVISOYTM HỖ TRỢ SỨC KHỎE ĐƯỜNG RUỘT VÀ TĂNG ĐỘ ĐỒNG ĐỀU CỦA HEO CON SAU CAI SỮA
PROVISOYTM – Nguồn đạm có khả năng tiêu hóa cao và SW GUT FP thấp
ProvisoyTM là thương hiệu toàn cầu của Cargill về sản phẩm có nguồn gốc từ đạm đậu nành được chế biến thông qua công nghệ đặc biệt nhằm mục đích giảm lượng đạm có thể lên men. Kết quả này có được là nhờ vào tác động tích cực đến khả năng tiêu hóa chất đạm và điều hòa hệ vi sinh của đường tiêu hóa.
Thông qua công nghệ chế biến, ProvisoyTM có khả năng thấm hút dịch tiêu hóa rất mạnh và chất đạm của ProvisoyTM có cơ hội tiếp xúc cao với men tiêu hóa. Nhờ vậy, chức năng tiêu hóa được nâng cao và các men tiêu hóa hoạt động hiệu quả hơn. Đặc điểm đó khiến ProvisoyTM có được những tính năng độc đáo: tỷ lệ tiêu hóa chất đạm rất cao và tốc độ tiêu hóa rất nhanh, từ đó, giảm lượng đạm không tiêu đi xuống ruột già và cuối cùng, giảm lượng SW GUT FP. Tác động này cùng với chức năng điều hòa hệ vi sinh vật đường ruột khiến ProvisoyTM trở thành nguồn đạm vượt trội trong việc hỗ trợ sức khỏe đường ruột và nâng cao năng suất sinh trưởng của vật nuôi.
Hình 4: ProvisoyTM thể hiện tỷ lệ tiêu hóa trong 3 giờ cao nhất và giá trị SW GUT FP thấp nhất trong số các sản phẩm đạm đậu nành (Cargill research 2020)
Như được thể hiện trong Hình 4, ProvisoyTM vượt xa các nguồn đạm đậu nành khác về tỷ lệ tiêu hóa đạm trong 3 giờ đầu. Do vậy, sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiêu hóa trong 3 giờ và tỷ lệ tiêu hóa trong 24 giờ của ProvisoyTM là nhỏ nhất khi so với các sản phẩm khác. Thông tin này cho thấy rằng, với ProvisoyTM, một lượng đạm lớn hơn đã được tiêu hóa trong ruột non, do đó, lượng đạm đưa xuống ruột già và lên men bởi vi khuẩn sẽ ít hơn so với các sản phẩm khác. Điều này phù hợp với các nghiên cứu của Cargill cho thấy rằng ProvisoyTM hầu như luôn thể hiện giá trị SW GUT FP thấp nhất trong số các sản phẩm được khảo sát.
PROVISOYTM cải thiện chất lượng phân, nâng cao năng suất và tăng độ đồng đều của heo con
Các tính năng độc đáo khiến ProvisoyTM trở thành giải pháp tuyệt vời trong việc hỗ trợ sức khỏe hệ tiêu hóa và tối ưu năng suất của vật nuôi. Phân tích tổng hợp của Cargill (2020) cho thấy, trên heo con trong hai tuần đầu sau cai sữa, ProvisoyTM đã cải thiện 30% trên chất lượng phân (Hình 5), tăng 10% độ đồng đều đàn và tăng 6% tăng trọng bình quân ngày (ADG).
Hình 5: Ví dụ về cải thiện Điểm Chất lượng Phân: Chất lượng phân được chấm điểm từ 1 đến 5 thể hiện cho lượng nước từ khô nhất đến lỏng.
Tiêu hóa tốt hơn và đường ruột khỏe hơn là những yếu tố quan trọng giúp vật nuôi tăng trưởng nhanh hơn. Một nghiên cứu đã được thực hiện tại Trung tâm Đổi mới Toàn cầu của Cargill ở Velddriel (Hà Lan) để khảo sát mức tăng trưởng của heo con từ 5 ngày tuổi đến 40 ngày sau cai sữa (từ 22 ngày tuổi đến 57 ngày tuổi). Như được trình bày trong Bảng 1, Provisoy™ gia tăng đáng kể chỉ số tăng trọng bình quân ngày (ADG) với mức 12% cao hơn so với khô nành (SBM) và 6% cao hơn so với SBM được xử lý bằng men.
Bảng 1: ProvisoyTM gia tăng mức tăng trưởng của heo con (Cargill research 2007)
Sự gia tăng ADG dẫn đến trọng lượng của heo con ở 40 ngày sau cai sữa (57 ngày tuổi) cũng cao hơn, lần lượt là 1,9 kg và 0,9 kg cao hơn so với SBM và SBM được xử lý bằng men. Heo con cai sữa được cho ăn ProvisoyTM tiêu thụ mức SW GUT FP thấp nên có hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh và tăng trọng cao hơn.
Một trong những lợi ích quan trọng luôn được nhìn thấy khi sử dụng Provisoy™ là việc tăng độ đồng đều của heo con. Điều này giúp người chăn nuôi thực hiện tốt hơn các công tác về chăm sóc, quản lý (chẳng hạn như: ít có heo nhỏ cần được chú ý chăm sóc đặc biệt; việc thực hiện quy trình cùng vào-cùng ra cũng dễ dàng và chặt chẽ hơn). Như được thể hiện trong Hình 6, không chỉ trọng lượng cuối trung bình của heo con cao hơn, mà sự phân bố trọng lượng của nhóm heo con được cho ăn ProvisoyTM cũng ít khác biệt hơn rất nhiều so với nhóm heo con sử dụng SBM hoặc SBM được xử lý bằng men. Độ đồng đều của heo con cai sữa được cải thiện đáng kể khi sử dụng ProvisoyTM, chỉ có 0,2% heo nhỏ hơn 23kg so với 30,2% ở nhóm sử dụng SBM. Nhận định này phù hợp với kinh nghiệm thực tế của Cargill ở nhiều quốc gia khác nhau, cho thấy rằng ProvisoyTM thúc đẩy mạnh sự tăng trưởng của những con heo bé nhất trong đàn và từ đó thu hẹp mức chênh lệch trọng lượng giữa các cá thể trong toàn đàn.
Hình 6: ProvisoyTM cải thiện độ đồng đều và tăng trọng của heo con (Cargill research 2007)
Với tác động hỗ trợ và thúc đẩy những con bé, yếu trong đàn lớn nhanh hơn, ProvisoyTM trở thành chọn lựa tốt nhất trong số những sản phẩm đạm đậu nành để giảm thiểu việc sử dụng nguồn đạm động vật đắt tiền trong thức ăn heo con. Hơn nữa, với công nghệ chế biến độc đáo theo hệ thống FSQR (An toàn Thực phẩm, Chất lượng và Tuân thủ luật định) của Cargill, ProvisoyTM hoàn toàn phù hợp là một nguyên liệu có chất lượng cao, an toàn và ổn định cho thức ăn heo con.
KẾT LUẬN
Là một giải pháp đã được kiểm chứng ở Châu Âu, Provisoy™ của Cargill đã giúp các nhà sản xuất đạt được mục tiêu năng suất trong nhiều năm. Kinh nghiệm này hiện đang được vận dụng vào các khu vực khác trên thế giới. Do đặc điểm độc đáo là có giá trị SW GUT FP thấp, ProvisoyTM đã được chứng minh là nguồn đạm đậu nành chế biến có chất lượng cao và ổn định, phù hợp cho heo con cai sữa, giúp giảm tình trạng tiêu chảy, nâng cao năng suất sinh trưởng và tăng độ đồng đều. Các nhà sản xuất hiện đang phải đối mặt ngày càng nhiều với những thách thức, như việc loại bỏ kháng sinh ra khỏi thức ăn, hạn chế sử dụng oxit kẽm, sự bấp bênh của ngành chăn nuôi và chi phí nguyên liệu đầu vào ngày càng tăng cao. ProvisoyTM là nguồn đạm tuyệt vời có thể giúp quản lý hiệu quả các thách thức gây tiêu chảy, thay thế một phần các nguồn đạm đắt tiền, cũng như hỗ trợ giảm thiểu việc sử dụng các loại thuốc hoặc phụ gia đắt tiền dùng kiểm soát tiêu chảy, trong khi vẫn cung cấp cho heo con một nguồn đạm có chất lượng cao và ổn định.
Phương Ngân
PROVIMI VIỆT NAM
238 Quốc lộ 1A, Phường Tân Hiệp, Thành Phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai, Việt Nam
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ số điện thoại 0908.953.951
- Provimi Việt Nam li>
- sức khỏe đường ruột li>
- PROVISOY li>
- heo con sau cai sữa li> ul>
- Sắp diễn ra hội thảo, phổ biến áp dụng mô hình số trong quản lý tại các cơ sở chăn nuôi
- 529 cơ sở chăn nuôi được công nhận an toàn đối với bệnh Dịch tả heo Châu Phi
- Ký kết hợp tác giữa Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Thương nhân thịt Singapore
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
Tin mới nhất
T7,23/11/2024
- Sắp diễn ra hội thảo, phổ biến áp dụng mô hình số trong quản lý tại các cơ sở chăn nuôi
- Ký kết hợp tác giữa Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Thương nhân thịt Singapore
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất