Một số suy nghĩ về phát triển trồng ngô phục vụ cho chăn nuôi    - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Một số suy nghĩ về phát triển trồng ngô phục vụ cho chăn nuôi   

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Ngô là một loại cây lương thực, bên cạnh lấy hạt, người trồng ngô còn lấy lá, lấy thân non sử dụng làm thức ăn cho trâu, bò, dê, cừu. Thân ngô già, khô làm củi đun, hàng rào, đốt lấy tro làm phân bón. Ngày nay, khi công nghệ chế biến phát triển, thân cây ngô, thậm chỉ cả lõi ngô đã lấy hạt cũng được băm nhỏ, nghiền nhỏ làm bột, lên men sử dụng làm thức ăn cho loại gia súc nhai lại. Tóm lại. khi trồng ngô, con người có thể sử dụng 100% sản phẩm của nó từ thân, lá, lõi và hạt. Thành phần dinh dưỡng của ngô, ngoài tỷ lệ tinh bột thấp còn lại các chất khác như đạm, béo, xơ và năng lượng tính cho 100 gam đều cao hơn gạo nếp cái và gạo tẻ. Bảng 1 dưới đây chứng minh điều nói này.

     

    Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam của ngô, gạo

          (Nguồn Viện dinh dưỡng quốc gia Việt Nam)

    Loại

    N. lượng (Kcalo)

    Nước (g)

    Đạm (g)

    Béo (g)

    Bột (g)

    Xơ (g)

    Gạo nếp cái

    346

    13,6

    8,2

    1,5      

    74,9

    0,6

    Gạo tẻ

    344

    13,5

    7,8

    1,0

    76,1

    0,4

    Ngô hạt vàng

    354

    13,8

    8,6

    4,7

    69,4

    2,0

     

     

    Sử dụng ngô nguyên hạt hoặc ngô xay, chế biến … làm thức ăn đơn điệu hoặc phối trộn trong thức ăn trong chăn nuôi là việc làm bình thường của người chăn nuôi. Ngô thường chiếm khoảng 25-40% trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm tùy theo giai đoạn phát triển, trang thái sinh lý của cơ thể của loại vật nuôi. Ngô gắn chặt với chăn nuôi, ngô càng nhiều, chăn nuôi càng phát triển. Mỹ, Brazil ngô nhiều, chăn nuôi ở các nước này rất phát triển, đặc biệt chăn nuôi lợn. Nước ta, Việt Nam là một nước nông nghiệp, cây ngô có điều kiện phát triển nhưng hàng năm nước ta vẫn phải nhập một lượng lớn ngô từ bên ngoài về làm thức ăn cho chăn nuôi. Bài viết này nêu tình hình phát triển ngô trong giai đoạn từ 2015 đến 2021ở nước ta ngô (không nói tới diện tích, năng suất ngô cây làm thức ăn thô xanh cho trâu, bò). Đồng thời, thông qua đó đề xuất một số ý kiến phát triển ngô phục vụ cho ngành chăn nuôi.

     

    I. Diện tích gieo trồng ngô ở nước ta

     

    Bản thân tôi rất ngạc nhiên, khi diện tích gieo trồng ngô của nước ta giảm dần theo năm tháng, mặc dù ngô luôn luôn được nhà nước khuyến khích, ưu tiên để phát triển.

     

      Bảng 1: Diện tích gieo trồng ngô ở nước ta                    

    (Đ.vị tính: 1000. ha)                                                                             

     

    2010

    2015*

    2016

    2017

    2018

    2019

    2020

    2021

    2021*/

    Cả nước

    1125,70

    1178,90

    1152,70

    1099,50

    1032,90

    986,70

    942,50

    902,80

    2010

    Tăng ,giảm (%) so năm trước

     

    -0,60

    -2,20

    -4,60

    -6,10

    -4,50

    -4.50

    -4,20

    -19,80

    ĐB SHồng

    97,60

    91,30

    89,80

    87,50

    78,10

    70,10

    64,40

    60,50

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    -6,50

    -1,60

    – 2,60

    -1,07

    1,02

    -0,81

    -0,61

    -38,00

    TD& MNPB

    460,60

    518,90

    509,50

    490,10

    455,90

    435,20

    426,40

    414,60

     

    Tăng ,giảm(%)

     so năm trước

     

    +12,70

    -1,80

    -3,80

    -7,00

    -4,50

    -2,20

    -2,80

    -10,00

    BTB&DHMT

    213,20

    210,40

    207,60

    200,20

    184,00

    182,40

    173,10

    175,90

     

    Tăng ,giảm(%)

     so năm trước

     

    -1,30

    -1,30

    -3,36

    -8,10

    -0,90

    -5,10

    +1,60

    -17,50

    Tây Nguyên

    236,80

    241,30

    235,30

    216,40

    212,90

    204,90

    192,80

    172,90

     

    Tăng ,giảm (%)

     so năm trước

     

    +1,90

    -2,50

    -8,00

    -1,60

    -3,80

    -5,90

    -10,30

    -27,00

    Đông NB

    79,80

    78,80

    75,70

    70,20

    68,70

    63,20

    58,30

    54,70

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    -1,30

    -3,90

    -7,30

    -2,10

    -8,00

    -7,80

    -6,20

    -31,50

    ĐB.SCL

    37,70

    38,20

    34,80

    35,10

    33,30

    30,90

    27,50

    24,40

     

    Tăng ,giảm (%)

     so năm trước

     

    +1,30

    -8,90

    +0,10

    -5,10

    -7,20

    -1,10

    -1,130

    -35,30

     

    Qua bảng 1 nhận thấy:

     

    – Từ năm 2010 đến 2021, diện tích gieo trồng ngô nước ta giảm 19,80%, từ 1125,70 ngàn ha xuống còn 902,80 ngàn ha. Diện tích giảm nhiều nhất là Vùng Đồng bằng Sông Hồng 38,00%, từ 97,60 ngàn ha xuống còn 60,50 ngàn ha. Đồng bằng Sông Cửu Long giảm tương ứng 35,30% từ 37,70 ngàn ha xuống còn 24,40 ha. Vùng Đông Nam bộ giảm 31,50%, từ 79,80 ngàn xuống còn 58,30 ngàn ha. Diện tích geo trồng ngô giảm ít nhất trong giai đoạn này là vùng Trung du và miền núi phía Bắc giảm 10,00%. Vùng Bắc Trung bộ và Duyên Hải miền Trung giảm 17,50%. Vùng Tây Nguyên tương ứng giảm 27,00%. Sự giảm diện tích ngô trồng có nhiều nguyên nhân (-) Lợi ích kinh tế trồng ngô trên cùng đơn vị diện tích kém hơn so với các loại cây trồng khác (-) Do thời tiết, khí hậu, nắng hạn, lụt lội  tác động (-) Sâu bệnh, côn trùng, chuột…. phá hoại.

     

    – Ngô ở nước ta được trồng trong phạm vi toàn quốc nhưng diện tích ngô trồng không đồng đều ở các tỉnh và các vùng. Diện tích trồng ngô nhiều nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc  426,40 ngàn ha chiếm 45,24% diện tích toàn quốc (426,40 ngàn ha so với 942,50 ngàn ha, lấy năm 2020 để so sánh); Vùng có diện tích lớn thứ hai là: Tây Nguyên chiếm 20,46%, tương ứng là 192,80 ngàn ha so với 942,50 ngàn ha. Vùng có diện tích lớn thứ ba là: Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung chiếm 17,31%. Các vùng khác, diện tích trồng ngô ít hơn. Cụ thể, Đồng bằng Sông Hồng chiếm 6,83%; Đông Nam Bộ chiếm 6,19% và Đồng bằng Sông Cửu Long chỉ chiếm có: 2,92%.                      

    II. Năng suất ngô trồng ở nước ta

      

    Trái với diện tích, năng suất ngô trồng ở nước ta luôn luôn được cải thiện, phần lớn là năm sau cao hơn năm trước. Cá biệt có những năm giảm, nhưng tốc độ giảm không nhiều. Năng suất của ngô trồng phụ thuộc nhiều yếu tố: (-) Giống, kỹ thuật gieo trồng, mùa vụ, vùng hay khu vực (-) Khí hậu, thời tiết (-) Phương pháp thu hoạch, bảo quản. Qua bảng 2, Năng suất ngô trồng ở nước ta nhận thấy (lấy năm 2020 để so sánh):

     

    – Năng suất bình quân của ngô trồng vùng Đông Nam Bộ là cao nhất, đạt 69,60 tạ /ha. Thứ hai là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đạt 61,90 tạ/ ha. Thứ 3 là vùng Tây Nguyên, năng suất đạt 57,10 tạ/ ha. Năng suất ngô thấp nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ đạt 40,30 tạ/ha; vùng  Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung đạt 48,30 tạ /ha và vùng Đồng bằng Sông Hồng, chỉ đạt 51,00  tạ /ha.

     

    – Năm 2016, 2017 và năm 2020 có thể do ảnh hưởng của thời tiết khí hậu đã làm cho năng suất ngô của vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long giảm, giảm đến 3,30% ở vùng Sông Cửu Long, năm 2016 và 2,70% ở vùng Tây Nguyên năm 2020.     

     

                     Bảng 2. Năng suất ngô trồng ở nước ta.                  

      (Đ.vị tính: Tạ/ha)                                                                                                                                                                                                                                                             

     

    2010

    2015*

    2016

    2017

    2018                   

    2019

    2020

    2021

    2021*/

    Cả nước

    41,10

    44,80

    45,50

    46,5

    47,20

    48,00

    48,4

    49,30

    2010

    Tăng ,giảm (%)  so năm trước

     

    +9,00

    +1,60

    +2,20

    +1,50

    +1,70

    +0,80

    +1,90

    19,90

    ĐB S.Hồng

    42,20

    48,10

    48,10

    49,20

    49,70

    50,00

    51,00

    51,90

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +6,40

    0,00

    +2,30

    +1,00

    +0,60

    +2,00

    +1,80

    14,90

    TD& MNPB

    33,30

    36,90

    38,10

    38,80

    39,50

    39,50

    40,30

    40,90

     

    Tăng ,giảm (%)  so năm trước

     

    +10,80

    +3,30

    +1,80

    1,80

    0,00

    +2,00

    1,50

    22,80

    BTB&DHMT

    39,90

    44,20

    45,30

    45,70

    46,00

    47,10

    48,30

    48,70

     

    Tăng,giảm (%)

    so năm trước

     

    +10,80

    +2,50

    +0,0,90

    +0,70

    +2,40

    +2,50

    +0,80

    +22,10

    Tây Nguyên

    50,00

    53,70

    53,50

    56,50

    56,70

    58,70

    57,10

    59,90

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +7,40

    -0,40

    +5,60

    +0,40

    +3,50

    -2,70

    +4,90

    19,80

    Đông Nam Bộ

    52,00

    62,40

    63,60

    63,10

    64,20

    65,70

    69,60

    71,40

     

    Tăng ,giảm (%)  so năm trước

     

    +20,00

    +1,90

    -0,80

    +1,70

    +4,10

    +5,90

    +2,60

    +37,30

    ĐB.Sông Cửu Long

    53,20

    57,5

    55,60

    57,00

    57,40

    57,80

    61,90

    62,80

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +8,00

    -3,30

    +2,60

    +0,70

    0,70

    +7,10

    +1,50

    18,00

     

    III. Sản lượng ngô trồng ở nước ta

     

    Sản lượng ngô trồng của nước ta được thể hiện qua bảng 3, từ bảng 3 nhận thấy:

     

    – Từ năm 2010 đến năm 2021, tổng sản lượng ngô trồng ở nước ta giảm 3,90%. Sản lượng này, dao động từ 4,5 – 5,3 triệu tấn/năm.

     

    – Mức độ giảm của sản lượng ngô khác nhau ở những năm khác nhau; những vùng khác nhau trong cùng một năm cũng khác nhau.

     

    – Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2021, vùng Đồng bằng Sông Hồng sản lượng ngô giảm tới 27,80%; vùng Đồng bằng Sông Cửu Long giảm đến 23,40%; vùng Tây Nguyên giảm 12,5 % và vùng Đông Nam Bộ giảm 6,0%. Ngược lại, Vùng Trung Du và miền núi phía Bắc sản lượng ngô lại tăng 10,40%, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung sản lượng ngô tăng 0,8%.

     

    Lý giải cho sự giảm suốt sản lượng ngô trồng là do diện tích ngô trồng bị thu hẹp hay giảm xuống. Cụ thể như bảng 1 đã chỉ ra giai đoạn 2010 đến 2021, diện tích ngô trồng trong toàn quốc giảm đến19,80% (đã phân tích ở phần trên).

     

               Bảng 3:  Sản lượng ngô trồng ở nước ta                   

    ( Đ.vị tính: Ngàn tấn)

     

    2010

    2015*

    2016

    2017

    2018

    2019

    2020

    2021

    2021*/

    Cả nước

    4625,70

    5287,20

    5246,50

    5109,60

    4874,10

    4731,9

    4558,20

    4446,40

    2010

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +14,30

    -0,80

    -2,60

    -4,60

    -2,90

    -2,50

    -2,40

    -3,90

    ĐB S.hồng

    441,00

    438,70

    432,20

    430,30

    387,80

    355,5

    328,50

    314,30

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    -0,50

    -1,50

    -0,40

    -9,90

    -8,30

    -7,60

    -4,30

    -28,70

    TD& MNPB

    1535,40

    1912,60

    1939,30

    1899,901

    1801,50

    1720,90

    1716,50

    1695,70

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +24,60

    +1,40

    -2,00

    -5,20

    -4,50

    -0,30

    -1,20

    +10,40

    BTB&DHMT

    849,80

    929,00

    940,20

    914,40

    846,00

    858,20

    836,80

    856,90

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +9,30

    +1,20

    -2,70

    -7,50

    +1,40

    -2,50

    +2,40

    +0,80

    Tây Nguyên

    1184,20

    1295,50

    1260,00

    1221,90

    1206,30

    1203,30

    1100,40

    1036,20

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +9,40

    -2,70

    -3,00

    -1,30

    -0,20

    -8,50

    -5,80

    -12,50

    Đông NB

    414,90

    491,90

    481,40

    442,90

    441,30

    415,50

    405,8

    390,00

     

    Tăng ,giảm (%)  so năm trước

     

    +18,80

    -2,30

    -8,00

    -0,40

    -5,80

    -2,30

    -3,90

    -6,00

    ĐB.SCL

    200,40

    219,50

    193,40

    200,20

    191,20

    178,50

    170,20

    153,50

     

    Tăng ,giảm (%)

    so năm trước

     

    +9,50

    -11,90

    +3,50

    -4,50

    -6,60

    -4,60

    -9,80

    -23,40

     

    Bảng 4 dưới đây thể hiện rõ hơn diện tích, năng suất và sản lượng ngô trồng ở các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước (số liệu Thống kê năm 2020).

     

          Bảng 4:  Diện tích, năng suất và sản lượng ngô trồng tại các vùng sinh thái và số thứ tự khi so sánh giữa các vùng

    (số liệu Thống kê năm 2020).  

              Vùng

        Diên tích ngàn ha

     Năng suất   tạ/ha

            Ngàn tấn

     

                        Số T.tự

                     Số T.tự

                     Số T.tự

    Cả nước

         942,50           –

         48,40          –

      4559,20        –

     Đồng bằng Sông Hồng

    64,40             4

    51,00          4

    328,50        5

    Trung Du &MN PB

    426,40           1

    40,30          6

      1716,50        1

    Bắc TB &DHMT

    173,10           3

    48,30          5

    836,80        3

    Tây Nguyên

    192,80           2

    57,10          3

      1100,40        2

    Đông Nam Bộ

    58,30             5

    69,90          1

    405,80        4

    Đồng bằng Sông CL

    27,50             6

    61,90          2

    170,20       6

      

    Qua bảng 4 trên ta nhận thấy:

     

    – Diện tích, năng suất không đi thuận với nhau: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có diện tích ngô trồng lớn nhất trong toàn quốc 426,40 ngàn ha nhưng năng suất ngô lại kém nhất trong trong cả nước, chỉ đạt 40,30 tạ/ha. Còn vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long điện tích trồng ngô chỉ đứng thứ 5 và thứ 6 trong các vùng nhưng trái lại năng suất ngô trồng lại đạt vị trí số 1 và số 2 trong toàn quốc, tương ứng là 69,90 và 61,90 tạ/ha.

     

    – Sản lượng ngô trồng thu được ở nước ta nhiều nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc đạt 1716,50 ngàn tấn. Vùng nhiều thứ hai là vùng Tây Nguyên, đạt 1100,40 ngàn tấn. Vùng Bắc trung bộ và Duyên Hải miềnTrung , sản lượng ngô đạt 836,80 ngàn tấn.

     

           Bảng 5. !0 tỉnh thành có Diện tích, năng suất và sản lượng ngô lớn nhất cả nước

                                        (số liệu Thống kê năm 2020).  

    Diện tích, ngàn ha

    Năng suất,  tạ/ha

    Sản lượng, ngàn tấn

    Địa Phương                        T.Tự

    Địa Phương                         T.Tự

    Địa Phương                           T.Tự

    Đắc Lắc              87,30         1

    Đồng Tháp           90,20        1

    Đắc Lắc            514,10       1

    Sơn La                85,30         2

    Đồng Nai              79,90        2

    Sơn La              339,20       2

    Hà Giang            54,70         3

    An Giang              78,10        3

    Đắc Nông          309,00      3

    Đắc Nông           48,00         4

    Bình Thuận           66,00       4

    Đồng Nai           289,90     4

    Nghệ An             45,50         5

    Đắc Nông              64,40       5

    Gia lai                211,80     5

    Gia Lai                44,50         6

    Long An                62,50       6

    Nghệ An            207,80     6

    Thanh Hóa          42,70         7

    An Giang               62,30       7

    Hà Giang           199,90     7

    Cao Bằng            40,70         8

    Cần Thơ                 61,10       8

    Thanh Hóa         198,70     8

    Lào Cai               38,20         9

    Hải Dương             60,80       9

    Cao Bằng           156,50     9

    Hòa Bình            32,90         10

    Bình Định              60,30      10

    Lào Cai              153,40    10

     

    Như vậy, nước ta diện tích ngô trồng lớn nhất là hai tỉnh Đắc Lắc có 87,30 ngàn ha và Sơn La có 85,30 ngàn ha. Năng suất ngô trông trung bình đạt cao nhất là ở Đồng Tháp đạt 90,20 tạ/ha; Đồng Nai đạt 79,90 tạ /ha. Sản lượng Ngô nhiều nhất ở  Đắc Lắc đạt 514,10 ngàn tấn, Sơn La đạt 339,20 ngàn tấn và Đắc Nông đạt 309,00 ngàn tấn.

     

    IV. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp sản xuất trong nước

     

    Chăn nuôi nước ta trong hai, ba mươi năm qua tăng trưởng bình quân khoảng 5 – 6 %/năm.  Chăn nuôi phát triển, ngành thức ăn công nghiệp ra đời và tăng trưởng rất nhanh. Thức ăn chăn nuôi công nghiệp nước ta ra đời năm 1993, từ chỗ chỉ đạt 400 ngàn tấn năm 1993 đến năm 2010 tăng lên, đạt 10.50 triệu tấn, và đến năm 2021 lượng thức ăn này đã đạt 21,90 triệu tấn. Ngô hạt và lượng thức ăn chăn nuôi liên quan chặt chẽ với nhau. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp và lượng ngô nhập khẩu ở nước ta giai đoạn 2016 đến năm 2021 thể hiện ở bảng 5 bên dưới.

     

    Bảng 6: Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp và lượng ngô nhập khẩu từ 2016 đến2021                  

      (Cục Chăn nuôi, 2016-2021).

     

    Số TT

    Năm

    Tổng số (tr.tấn)

     Lượng ngô nhập khẩu  (tr.tấn)

     Giá trị ngô nhập khẩu (tỷ USD)

    1

    2016

    20.15

    7,60

    1,42

    2

    2017

    19,38

    7,84

    1,50

    3

    2018

    18,80

    9,40

    2,00

    4

    2019

    18,94

    9,70

    1,95

    5

    2020

    20,30

    8,90

    1,75

    6

    2021

    21,90

    9,64

    2,66

     

    Qua bảng 5 nhận thấy: – Tổng lượng thức ăn chăn nuôi sản xuất ra ngày một tăng và đã đạt 21,90 triệu tấn năm 2021. Nước ta hàng năm mới sản xuất ra được 4,5 –gần 5,0 triệu tấn ngô. Ngoài dùng làm lương thực, thực phẩm, số ngô còn lại mới dùng cho chăn nuôi. Vì thế, ngô sử dụng cho sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp rất thiếu. Sự thiếu hụt này đã được lấp đầy bằng việc nhập khẩu. Lượng ngô nhập khẩu tăng theo sự tăng lên của lượng thức ăn công nghiệp và đạt 9,64 triệu tấn năm 2021. Lượng USD nước ta phải bỏ ra để nhập ngô năm 2021 tương ứng là 2,66 tỷ.                 

     

    V. Những suy nghĩ và đề xuất.

     

    1. Nước ta là nước nông nghiệp, ngô trồng là một cây lương thực truyền thống của người nông dân. Người dân việt Nam cần cù lao động, thông thạo nghề nông, nghề trồng ngô. Thị trường ngô trồng (hạt và thân ngô) ở nước ta rất lớn, tiềm năng dồi dào vì thế, nước ta cần có những biện pháp và chính sách hợp lý, ưu tiên để ngô trồng phát triển nhanh hơn, nhiều hơn. Không thể để đất bị bỏ phí, lao động không có việc, hàng năm nhà nước phải bỏ ra hàng tỷ USD nhập ngô từ bên ngoài nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước.

     

    2. Để tăng sản lượng ngô trong nước cần tập trung vào 3 yếu tố chính, đó là tăng diện tích, tăng năng suất và giảm thất thu sau thu hoạch.

     

    a. Tăng diện tích trồng ngô. Tăng diện tích trồng ngô là việc làm khó vì: (-) Nếu những nơi đất trồng được ngô, người dân đã trồng từ lâu đời (-) Đất cho trồng trọt đã được quy hoạch cho các loại cây trồng khác nhau, nếu có thể chỉ những chỗ đất trồng các loại cây khác ít hiệu quả chuyển sang trồng ngô (đã có chủ trương của nhà nước) và có thể tăng diện tích ngô trồng bằng xen vụ, gối vụ hoặc luân canh cùng với các cây trồng khác (-) Về hiệu quả kinh tế, ngô trồng còn kém hiệu quả hơn các cây khác do năng suất thấp và giá ngô cao hơn so với giá ngô nhập khẩu.

     

    b. Tăng năng suất của ngô trồng. Tăng năng suất của ngô là yếu tố chính thúc đẩy tăng sản lượng ngô ở nước ta. Năng suất ngô nước ta bình quân đạt 4,93 tấn/ha, thấp hơn so với bình quân của thế giới gần 6,0 tấn/ha. Tuy vậy, một số vùng ở nước ta như Đông Nam Bộ đạt bình quân 7,14 tấn/ha; vùng đồng bằng Sông Cửu Long đạt 6,28 tấn/ha; năng suất ngô bình quân của tỉnh Đồng tháp đạt 9,02 tấn/ha cao nhất trong toàn quốc, tỉnh Đồng Nai bình quân năng suất ngô đạt 7,99 tấn /ha và tỉnh An Giang năng suất đạt 7,81 tấn/ha. Như vậy, chúng ta có cơ sở để tăng năng suất và tăng tổng sản lượng ngô trồng. Vấn đề đặt ra ở đây là giống và kỹ thuật gieo trồng, canh tác. Vậy, giống ngô nào, kỹ thuật gieo trồng đúng và phù hợp với từng vùng đất cần phải được phổ biến chuyển giao cho người nông dân. Khi giống tốt, kỹ thuật gieo trồng phù hợp chắc chắn năng suất sẽ được tăng lên.

     

    c. Giảm thất thu sau thu hoạch. Giảm thất thu của ngô sau thu hoạch phụ thuộc vào mùa vụ, vào giống và vào phương pháp thu hoạch, phương pháp bảo quản, chế biến. Tỷ lệ giảm thất thu của ngô sau thu hoạch theo các chuyên gia ngô, dao động trung bình từ 3 -5%, lớn có khi đến 10 trên 10%. Nguyên nhân giảm thất thu sau thu hoạch do mốc, mọt trong quá trình bảo quản sau thu hoạch là chính ở đây chưa tính đến giảm  chất lượng của ngô.

     

    3. Giảm giá thành sản xuất ngô. Giá ngô trồng của nước ta khó cạnh tranh được với ngô nhập khẩu do nhiều nguyên nhân. Để giảm giá ngô chúng ta có thể tác động vào nhiều yếu tố .(-) Tăng năng suất ngô; (-) Chọn lựa các giống năng suất cao nhưng ít mối, mọt, sâu bệnh, thích ứng tốt với điều kiện sinh thái của từng vùng. (-) Áp dụng cơ giới hóa trên diện rộng. (-) Cải tiến phương pháp thu hoạch, phương pháp bảo quản và chế biến./.

     

     Tài liệu tham khảo

     

    1. Niên giám thống kê, Tổng cục thống kê năm 2015-2021.
    2. Báo cáo tổng kết của Cục Chăn nuôi năm 2016 -2021.
    3. FAOSTAT (2012). “FAOSTAT StatisticalData – Final 2012 production crop”. pp.
    4. Một số kết quả nghiên cứu về cây ngô ở Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, 2015.Trần Kim Định, Nguyễn Hữu Để, Phạm Văn Ngọc, Bùi Xuân Mạnh.

     

    PGS. TS.Lê Thị Thúy, Viện Trưởng               

                                                 Viện Khoa học Kỹ thuật – Hội Chăn nuôi Việt Nam

                                     PGS.TS. Hoàng Kim Giao, Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn Việt Nam

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.