Tác giả: Christophe Bostvironnois, DVM, Sr. Global Product Manager Poultry
Jean-Christophe Bodin Msc, Agr., Sr. Product Manager Poultry
Giảm kháng sinh, câu chuyện hơn 25 năm ở gia cầm
Việc sử dụng kháng sinh ở gia cầm đã được giám sát chặt chẽ trong hơn 20 năm. Lệnh cấm của châu Âu đối với các chất kích thích tăng trưởng kháng sinh (AGP) được ban hành năm 1996 và có hiệu lực mười năm sau đó, vào năm 2006. Biện pháp này đã dẫn đến việc lạm dụng thuốc kháng sinh cho mục đích y tế ở hầu hết các quốc gia bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm.
Kể từ đó, một số cơ quan quản lý châu Âu đã thông qua các quy định bắt buộc giảm sử dụng kháng sinh, kể cả cho mục đích điều trị. Cụ thể hơn, biện pháp mới này được thực hiện bởi các cơ quan an toàn thực phẩm ( ví dụ: Hà Lan, Pháp) hoặc các hiệp hội ngành gia cầm (ví dụ: ở Vương quốc Anh bởi Hội đồng Gia cầm Anh).
Gần đây, một thực tiễn quản lý ở Hoa Kỳ, mang tên “Không sử dụng kháng sinh” (NAE), đã tăng dần kể từ năm 2015, và hiện ảnh hưởng đến 60% ngành chăn nuôi gia cầm hiện nay.
Đã có sự phát triển trong việc xác định, thử nghiệm và lựa chọn các giải pháp thay thế. Chúng không chỉ giới hạn ở việc phòng bệnh thông qua các chương trình tiêm chủng cải tiến, mà còn cải thiện các biện pháp an toàn sinh học, các chương trình cho ăn, và chất lượng gà con khi đến nơi. Mặc dù thực tế là các trại sản xuất giống vẫn sử dụng kháng sinh, ngành chăn nuôi gia cầm vẫn tiếp tục tìm kiếm các lựa chọn thay thế tốt hơn.
Chế phẩm sinh học dựa trên Bacillus được biết là có tác dụng ức chế sự phát triển mầm bệnh
Bacilli rất thích hợp để cạnh tranh chất dinh dưỡng trong môi trường, bao gồm cả trong đường ruột. Một trong số chúng tích cực sản xuất lipopeptide (ví dụ: chất hoạt động bề mặt, iturin và Fengycin) trực tiếp ức chế hoặc tiêu diệt vi khuẩn cạnh tranh. Các chủng khác có thể đẩy nhanh quá trình sản xuất các tế bào phụ, các phân tử cho phép vi khuẩn thu nhận sắt thiết yếu từ môi trường vi sinh và cạnh tranh chất dinh dưỡng với các vi khuẩn khác.
Từ nghiên cứu được công bố trước đây, các chủng trong GALLIPRO® Fit được biết là tạo ra nồng độ lipopeptit cao hơn so với các sản phẩm Bacillus khác trên thị trường (Hình 1).
Hình 1: Sản xuất Surfactin và Fengycin (in vitro)
GALLIPRO® Fit ức chế các mầm bệnh được tìm thấy trong thương mại
Các trang trại gia cầm lớn đã tìm đến chúng tôi để tìm hiểu về giảm sử dụng thuốc kháng sinh trong toàn bộ hệ thống sản xuất của mình. Một phân tích đã được thực hiện để xác định khả năng ức chế của GALLIPRO® Fit đối với mầm bệnh mà các trang trại quan tâm. GALLIPRO® Fit là sự kết hợp của hai chủng Bacillus subtilis và một chủng Bacillus amyloliquefaciens.
Các vi khuẩn đã được vận chuyển an toàn đến Phòng thí nghiệm Chr. Hansen ở Hørsholm, Đan Mạch. Bắt đầu thí nghiệm, mẫu khuẩn bệnh được thêm vào thạch lỏng, rồi đổ vào đĩa nuôi cấy hình chữ nhật. Sau đó, tạo các lỗ nhỏ trên đĩa thạch khi đông lại bằng thiết bị vô trùng. Cuối cùng, các mẫu men Bacilli được thêm vào
các lỗ.
Khuẩn bệnh tạo thành một vùng các khuẩn lạc nhỏ trên khắp đĩa thạch và khuẩn men tạo thành một khuẩn lạc đơn lớn hơn trong lỗ. Nếu khuẩn men tạo ra bất kỳ vùng ức chế nào, thì một vùng trong suốt sẽ hình thành xung quanh lỗ mà vi khuẩn đó đang phát triển.
Kích thước của vùng ức chế có tỷ lệ thuận với hiệu quả của chất ức chế.
Hình 1: Sự ức chếE. coli078K80 bởi các chủng GALLIPRO® Fit
Hình 2: Sự ức chế S. Mbandakabởi các chủng GALLIPRO® Fit
Ví dụ về kết quả này có thể được nhìn thấy trên hình 1 và hình 2. Những hình ảnh này minh họa tác dụng ức chế của GALLIPRO® Fit đối với các mầm bệnh. Kết quả tương tự cũng thu được khi kiểm tra 2 mầm bệnh khác. Một vùng ức chế lớn được quan sát thấy sau 24 giờ ủ, những vùng này là biểu hiện của cường độ ức chế do hai chủng của GALLIPRO® Fit tạo thành.
GALLIPRO® Fit giảm tác nhân gây bệnh, dẫn đến giảm nhu cầu điều trị bằng thuốc kháng sinh
Bước tiếp theo, xác định cường độ trong phòng thí nghiệm về việc sử dụng kháng sinh điều trị ở các hoạt động thương mại. Để đạt được mục tiêu đó, một nghiên cứu đã được lập ra để so sánh gà được nuôi trong cùng các block đôi ở cùng một trang trại. Tổng cộng 1,8 triệu gia cầm trong 72 đàn đã cam kết thực hiện thí nghiệm đó (36 con trong nhóm đối chứng và 36 con trong Nhóm GALLIPRO® Fit).
Tất cả gà đều được cho ăn theo chế độ ăn thông thường gồm lúa mì/ ngô / đậu nành có chứa chất chống vi khuẩn (narasin-nicarbazin) và các enzym (endo 1,4 β-xylanase, endo 1,3 β glucanase, endo 1-4 β mannannase và 3-phytase).
Nhóm gà với GALLIPRO® Fit đã được bổ sung hàng ngày (1,6×106 cfu/g thức ăn). Nhân viên tại các trang trại nuôi thương phẩm không biết về thí nghiệm và được yêu cầu không thay đổi việc đến sử dụng kháng sinh trong quá trình thử nghiệm. Gà ở cả hai nhóm thử nghiệm được thu hoạch vào khoảng 35 ngày tuổi.
Hình 2: Giảm tỷ lệ điều trị kháng sinh của đàn (%)
Hình 3: Biểu đồ đường cong phân bố tỷ lệ tử vong ở cả hai nhóm
Gà được cho ăn GALLIPRO® Fit hàng ngày giảm đi đáng kể việc sử dụng kháng sinh: 30.5% số đàn trong nhóm GALLIPRO® Fit so với 41.2% đàn ở nhóm đối chứng (giảm 26%; xem Hình 2). Điều đáng chú ý là tỷ lệ tử vong trung bình giảm khoảng 0.39%, đồng thời giảm sự biến đổi (xem Hình 3). Tóm lại, khẳng định rằng tỷ lệ phần trăm đàn gà được bổ sung GALLIPRO® Fit khỏe mạnh, có hệ tiêu hóa và miễn dịch hoạt động bình thường so với đàn gà nhóm đối chứng. Vì sức khỏe tổng thể của gia cầm, giảm kháng sinh để năng suất cuối tốt hơn, ước tính tiết kiệm được là hơn 18,000 Euro/1,000,000 gà.
Hồ Ngọc Thủy
_______________
THAM KHẢO:
1. ANSES, Etat des lieux des alternatives aux antibiotiques en vue de diminuer leur usage en élevage – Ed. scient., February 2018
2. British Poultry Council – Antibiotic Stewardship – Report 2019. Chr. Hansen Innovation Laboratories – M1120, 2020.
3. Poultry Health Today – Nearly 60% of US broilers now raised without antibiotics, but that number may have peaked – May 4, 2020.
4. Mehdi Y. et al., Use of antibiotics in broiler production: Global impacts and alternatives, Animal Nutrition 4 (2018) 170-178.
5. Chr. Hansen A/S Trial n°80559
Mọi chi tiết xin liên hệ:
CÔNG TY TNHH MTV NUTRISPICES
Địa chỉ: Titan Tower, tầng 2, số 70 – 72 – 74 đường 37, phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại: 028 6271 1906 | Email: [email protected]
Website: www.nutrispices.com
- nutrispices li>
- gà thịt li>
- GALLIPRO li> ul>
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Tập đoàn Nhật Sojitz khai trương nhà máy chế biến thịt bò mát 10.000 tấn tại Tam Đảo
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất