Bảo tồn nguồn gen động vật: Giữ gìn bản sắc ngành chăn nuôi - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Bảo tồn nguồn gen động vật: Giữ gìn bản sắc ngành chăn nuôi

    [Chăn Nuôi Việt Nam] – Trong bồi cảnh biến đổi khí hậu, dịch bệnh và áp lực từ thị trường, việc bảo tồn và phát triển nguồn gen vật nuôi, vì sinh vật thủ y đang trở thành ưu tiên chiến lược của ngành chăn nuôi và thủy sản Việt Nam.

     

    Tập trung khai thác và phát triển nguồn gen động vật quý hiểm trong chăn nuôi và thủy sản, chuyển hóa nguồn gen thành giá trị kinh tế

     

    Ngày 8/5/2025, tại TP, Hồ Chí Minh, Bộ NN và MT phối hợp với Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn tổ chức hội thảo khoa học “Đánh giá công tác bảo tồn nguồn gen giai đoạn 2020 – 2025, định hướng 2026 – 2030” trong các lĩnh vực thủy sản, chăn nuôi và thú y.

     

    Hội thảo là diễn đàn quan trọng nhằm tổng kết kết quả triển khai các chương trình bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gen động vật quý hiểm trong chăn nuôi và thủy sản, đồng thời định hình chính sách, định hướng khoa học – công nghệ cho giai đoạn tiếp theo. Hội thảo thu hút sự tham gia của đông đảo chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học, đại diện các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.

     

    Chuyển hóa nguồn gen thành giá trị kinh tế

     

    Việt Nam hiện sở hữu nguồn gen nông nghiệp phong phú, quý hiếm, nhưng đang đối mặt với nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học do khai thác quá mức, biến đổi khí hậu và sản xuất thiếu bền vững.

     

    Theo bà Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ NN và MT), bảo tồn và khai thác hiệu quả nguồn gen bản địa là trọng tâm trong chiến lược phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững và có năng lực cạnh tranh quốc tế.

     

    Từ năm 1989, Viện Chăn nuôi đã được giao thực hiện nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen vật nuôi như một hoạt động thường xuyên. Giai đoạn 2021- 2025, Viện đã bảo tồn thành công 21 nguồn gen gia súc, gia cầm; 3 nguồn gen ong và 7 loại vật liệu di truyền (tinh, phôi, tế bào soma), bằng cả phương pháp in-situ và ex-situ theo chuẩn của Tổ chức Thú y thế giới (FAO). Đáng chú ý, 6 nguồn gen mới đã được thu thập, trong đó có 4 nguồn năm trong danh mục pháp lý cần bảo tồn.

     

    Bên cạnh đó, vi sinh vật thú y là nền tảng cho sản xuất vaccine, chế phẩm sinh học và kiểm nghiệm. Trung tâm Kiểm nghiệm đã lưu giữ 42 giống vi sinh vật, giải mã 38/42 giống và sử dụng cho hơn 1.360 lô kiểm nghiệm vaccine trong 5 năm qua. Viện Thú y cũng đã bảo quản 36 chủng vi sinh vật như virus cúm, Salmonella, Campylobacter… nhiều giống đã được xác định gen độc lực, kháng thuốc và đăng ký quốc tế.

     

    Hiện, 57 nguồn gen thủy sản và 15 nguồn gen vi tảo đang được bảo tồn tại các viện nghiên cứu chuyên ngành. Các nguồn gen được đánh giá, lưu trữ và tư liệu hóá nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, nhân giống và phát triển sản phẩm. Một số loài đặc hữu như cá dẩm xanh, cá anh vũ, cá song da báo… đã được phục hồi. Một số giống như cá song vua, cá hỗi vân, cá rô phi đã được thương mại hóa thành công.

     

    Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ NN và MT Phùng Đức Tiến, công tác bảo tồn mới chỉ là bước khởi đầu: “Không thể chỉ cất giữ gen quý như bảo vật trong tủ kính. Cần chủ động thương mại hóa, đưa vật liệu di truyền vào sản xuất, hình thành sản phẩm có giá trị cao, có thể cạnh tranh với bò Kobe, cá hồi Na Uy, bò Waavu…”

     

    Nhiều chuyên gia cho rằng, rào cản lớn nhất hiện nay không phải là số lượng nguồn gen, mà là khả năng làm chủ công nghệ để giải mã, đánh giá và khai thác hiệu quả các nguồn gen quý. Việc áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ gen trong sản xuất là giải pháp giúp ngành chăn nuôi và thủy sản thoát khỏi thế bấp bênh, đồng thời xây dựng được thương hiệu sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.

     

    Công nghệ cao và liên kết là then chốt

     

    Mặc dù đạt được nhiều thành tựu nối bật, tuy nhiên công tác bảo tồn nguồn gen vật nuôi và vi sinh vật thú y còn nhiều tồn tại và thách thức như:

     

    • Thiếu cơ sở vật chất hiện đại và trung tâm bảo tồn chuyên biệt.

     

    • Kinh phí cho công tác bảo tồn còn phân tán, phụ thuộc ngân sách hàng năm.

     

    • Hệ thống cơ sở dữ liệu phân tán, chưa có mạng lưới kết nối quốc gia, quốc tế.

     

    • Nguồn gen quý có nguy cơ thất thoát, lai tạp, đồng huyết do thiếu quy định chặt chẽ về sở hữu và trao đổi.

     

    Để giải quyết tình trạng trên, giai đoạn 2026- 2030, ngành chăn nuôi và thủy sản xác định ba trụ cột chiến lược đó là:

     

    • Thành lập Trung tâm bảo tồn nguồn gen vật nuôi và thủy sản cấp quốc gia.

     

    • Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao như công nghệ sinh học, Al, di truyền phân tửvà chuyển đổi số trong giám định, giám sát và khai thác nguồn gen.

     

    •Tăng cường liên kết ba nhà: người dân – doanh nghiệp- nhà khoa học, hướng tới thương mại hóa giống bản địa và xây dựng thương hiệu sản phẩm đặc trưng.

     

    Việc bảo tồn nguồn gen không chỉ nhằm lưu giữ di sản sinh học mà còn là nền tảng thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, hiện đại và chủ động. Bộ NN và MT định hướng đưa hoạt động bảo tồn vào các chương trình khuyến nông, góp phần thực hiện mục tiêu kép “Giữ gen – Phát triển kinh tế”.

     

    Nghị quyết 57 – Đòn bẩy công nghệ trong nông nghiệp

     

    Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được kỳ vọng sẽ tạo cú huých mạnh mẽ cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Lần đầu tiên, khoa học công nghệ không còn được xem là “bệ đỡ”, mà được xác định là trụ cột phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

     

    Theo bà Nguyễn Giang Thu, Nghị quyết 57 sẽ tạo điều kiện để các chương trình trọng điểm về nghiên cứu giống, cơ sở dữ liệu gen quốc gia, cũng như hợp tác công – tư trong chọn tạo giống được ưu tiên triển khai, tiếp cận nguồn lực thuận lợi hơn. “Khi khoa học được coi trọng, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư hơn, đội ngũ nhà khoa học có cơ hội được đãi ngộ xứng đáng hơn”.

     

    Điểm đột phá của Nghị quyết 57 là mở hành lang pháp lý cho cơ chế đặt hàng nghiên cứu theo nhu cầu thị trường, chi trả theo kết quả đầu ra, thúc đẩy xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ gen – những yếu tố cốt lõi để rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa Việt Nam và các quốc gia tiên tiền.

     

    Trong bối cảnh yêu cầu sản xuất nông nghiệp ngày càng khắt khe, việc phát triển chăn nuôi và thủy sản phải theo hướng kiểm soát toàn trình từ gen, giống, dinh dưỡng, môi trường đến thương mại hóa theo chuỗi giá trị toàn cầu. Chỉ như vậy, Việt Nam mới thực sự chuyển từ nền nông nghiệp dựa vào tài nguyên sang nền nông nghiệp dựa vào khoa học công nghệ.

     

    Công nghệ gen sẽ là đòn bẩy chiến lược để tạo ra dòng sản phẩm nông nghiệp có hàm lượng tri thức cao, khác biệt, bền vững và mang thương hiệu Việt Nam ra thị trường quốc tế. “Nếu không làm chủ công nghệ gen, chúng ta sẽ mãi đi sau và phụ thuộc. Nhưng nếu tận dụng tốt cơ hội từ Nghị quyết 57, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên thành quốc gia sáng tạo gen chứ không chỉ dừng lại ở vai trò bảo tôn”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiền khẳng định.

     

    Thu Hằng

    Thứ trưởng bộ NN và MT Phùng Đức Tiến: Bảo tồn nguồn gen phải đi từ chính sách đến công nghệ

    Nguồn gen vật nuôi và thủy sản là tài sản chiến lược quốc gia, đóng vai trò then chốt trong chọn tạo giống mới, nâng cao năng suất và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Công tác bảo tồn cần tiếp cận toàn diện, từ hoàn thiện hành lang pháp lý, ứng dụng khoa học công nghệ đến đẩy mạnh chia sẻ dữ liệu giữa các vùng, ngành.

    Việc ưu tiên là bảo tồn các giống vật nuôi, thủy sản bản địa quý hiếm, những nguồn gen đang đứng trước nguy cơ mai một do tác động môi trường và sự lấn át của giống ngoại nhập. Công nghệ sinh học và bảo tồn gen phải như “dây diều” để đưa sản phẩm chăn nuôi, thủy sản Việt Nam vươn ra các thị trường quốc tế. Đây là con đường để ngành chăn nuôi, thủy sản tạo dựng thương hiệu riêng cho nông sản Việt.

     

    P.V (ghi)

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Quang Ngọc
  • Cho em xin tài liệu ạ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.