Trong báo cáo tháng 01/2023, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng gạo thế giới niên vụ 2022/23 giảm 0,4 triệu tấn so với báo cáo trước, xuống 503,3 triệu tấn (quy xay xát), thấp hơn 2% so với mức kỷ lục của vụ trước và là vụ giảm so với vụ liền trước lần đầu tiên kể từ niên vụ 2015/16. Niên vụ 2022/23 sẽ là niên vụ sản lượng gạo toàn cầu thấp nhất kể từ niên vụ 2019/20.
So với báo cáo tháng trước, các con số trong báo cáo tháng này được điều chỉnh giảm đối với sản lượng ở Australia, Braxin, EU, Panama và Hàn Quốc. Austrlia trồng và xuất khẩu gần như độc quyền loại gạo hạt vừa và hạt ngắn, còn EU sản xuất và xuất khẩu chủ yếu là gạo hạt ngắn và trung bình. Do đó, hai lần điều chỉnh sản xuất này càng thắt chặt thêm tình trạng nguồn cung vốn đã rất hạn chế đối với loại gạo này, do sản lượng của California ở mức thấp nhất kể từ niên vụ 1977/78.
Những điều chỉnh về sản lượng như trên và ước tính lượng hàng tồn kho toàn cầu giảm dẫn đến dự báo tổng nguồn cung toàn cầu niên vụ 2022/23 giảm 1,2 triệu tấn xuống còn 685,6 triệu tấn, thấp hơn 2% so với niên vụ trước và là mức thấp nhất kể từ niên vụ 2019/20. Đây là lần đầu tiên nguồn cung gạo toàn cầu giảm kể từ vụ 2004/05.
Ấn Độ – quốc gia sản xuất gạo lớn thứ hai trên thế giới – chiếm phần lớn sự sụt giảm sản lượng toàn cầu, với sản lượng dự kiến sẽ giảm 6,3 triệu tấn, xuống 124 triệu tấn. Nhà sản xuất số một toàn cầu – Trung Quốc – dự kiến sẽ sản xuất 147 triệu tấn gạo, giảm 2 triệu tấn so với kỷ lục niên vụ 2021/22. Sản lượng niên vụ 2022/23 của Pakistan dự kiến giảm 2,5 triệu tấn và của Mỹ dự kiến giảm gần 0,9 triệu tấn. Ngoài ra, dự kiến sản lượng gạo sẽ giảm ít nhất 100.000 tấn trong vụ 2022/23 ở Australia, Banglađét, Braxin, EU, Ghana, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nepal, Nigeria, Philippines, Sri Lanka và Tanzania.
Ngược lại, sản lượng niên vụ 2022/23 dự kiến sẽ tăng ít nhất 100.000 tấn so với mùa vụ trước đó ở Myanmar, Campuchia, Ai Cập, Indonesia, Iran, Mali, Thái Lan và Việt Nam. Vụ mùa của Ai Cập được dự đoán sẽ đạt mức tăng lớn nhất, tăng 0,7 triệu tấn lên 3,6 triệu tấn dựa trên diện tích thu hoạch lớn hơn và năng suất dự kiến cao hơn. Campuchia dự kiến sẽ thu hoạch một vụ mùa kỷ lục trong niên vụ 2022/23.
Báo cáo của USDA dự báo tiêu thụ gạo toàn cầu niên vụ 2022/23 giảm gần 0,9 triệu tấn so với báo cáo tháng liền trước, xuống còn 516,9 triệu, giảm 3,9 triệu tấn so với kỷ lục của vụ trước. Braxin, Ấn Độ và Thái Lan chiếm phần lớn mức điều chỉnh giảm. Dự báo tiêu thụ nội địa của Ấn Độ giảm 0,5 triệu tấn xuống 108,5 triệu tấn, thấp hơn 2,8 triệu tấn so với một năm trước nhưng vẫn là mức cao thứ hai được ghi nhận. Ngược lại, dự báo tiêu thụ nội địa niên vụ 2022/23 ở Canada, Cuba và Somalia được điều chỉnh tăng.
USDA dự báo tồn kho gạo thế giới cuối niên vụ 2022/23 giảm 0,4 triệu tấn xuống 168,6 triệu tấn, thấp hơn 7,5% so với đầu niên vụ và là vụ giảm thứ hai liên tiếp. Tồn kho toàn cầu niên vụ 2022/23 được dự báo ở mức thấp nhất kể từ niên vụ 2017/18. Tồn kho cuối niên vụ 2022/23 của Việt Nam giảm 0,6 triệu tấn xuống 1,1 triệu tấn, giảm 47% so với một năm trước đó và là mức thấp nhất kể từ niên vụ 2018/19. Tồn kho cuối vụ 2022/23 của Thái Lan giảm 0,5 triệu tấn xuống 2,53 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ vụ 2006/07. Đối với cả hai quốc gia, dự trữ cuối kỳ trong báo cáo đều giảm, chủ yếu là do xuất khẩu mạnh hơn trong cả niên vụ 2021/22 và 2022/23.
Dự báo tồn kho cuối năm 2022/23 cũng đã giảm trong tháng này đối với Australia, Braxin, Hàn Quốc, Oman và Syria. Những điều chỉnh giảm này đã được bù đắp một phần bởi những điều chỉnh tăng dự trữ cuối vụ 2022/23 đối với Trung Quốc, Bờ Biển Ngà, EU, Indonesia, Iraq, Philippines, Sri Lanka và Mỹ.
USDA nâng dự báo về xuất khẩu gạo năm 2023 ở Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam, nhưng giảm đối với xuất khẩu của Australia, Braxin và Mỹ. Dự báo về thương mại gạo toàn cầu trong năm 2023 tăng 0,8 triệu tấn lên 53,8 triệu tấn, nhưng giảm 4% so với mức cao kỷ lục của năm trước và là lần giảm đầu tiên kể từ năm 2019. Dự báo về xuất khẩu gạo Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam năm 2023 tăng bù đắp cho xuất khẩu của Australia, Braxin, EU và Mỹ giảm.
Về nhập khẩu trong năm 2023, dự báo tăng đối với Angola, Australia, Canada, Trung Quốc, Cuba, EU, Guatemala, Indonesia, Iraq, Philippines, Somalia và Sri Lanka trong khi giảm đối với Liberia, Libya, Panama, Quatar và Syria.
So với năm trước, dự báo xuất khẩu năm 2023 giảm ở Achentina, Braxin, Campuchia, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Pakistan, Nga, Senegal, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ và Uruguay. Xuất khẩu của Ấn Độ dự kiến sẽ giảm 1,2 triệu tấn và của Pakistan giảm 0,8 triệu tấn, chủ yếu do sản lượng giảm. Ngược lại, xuất khẩu của Australia, Myanmar, Guyana và Thái Lan dự kiến sẽ tăng trong năm 2023. Xuất khẩu của Thái Lan dự kiến sẽ tăng 0,6 triệu tấn lên 8,5 triệu tấn – mức cao nhất kể từ năm 2018, chủ yếu nhờ xuất khẩu từ các đối thủ cạnh tranh là Ấn Độ và Pakistan giảm. Xuất khẩu năm 2023 của Mỹ được dự báo là 2,25 triệu tấn, không thay đổi so với năm 2022 và là mức thấp nhất kể từ năm 1992
Về nhập khẩu toàn cầu năm 2023, Angola, Australia, Bangladesh, Benin, Campuchia, Canada, Trung Quốc, Costa Rica, Cote d’Ivoire, Egypt, Irắc, Hàn Quốc, Madagascar, Mali, Nicaragua, Nigeria, Philippin, Senegal, Somali, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam dự kiến sẽ giảm nhập khẩu gạo vào năm 2023 so với năm 2022.
Một phần bù đắp cho sự sụt giảm nhập khẩu dự kiến này là nhập khẩu gạo tăng vào năm 2023 dự kiến cho Afghanistan, Cameroon, Congo (Kinshasa) Cuba, Ecuador, Liên minh Châu Âu , Ghana, Guinea-Bissau, Haiti, Kazakhstan, Kuwait, Liberia, Libya, Mexico, Mozambique, Nepal, Niger, Oman, Panama, Peru, Nga, Nam Phi, Thụy Sĩ, Syria, Tanzania, Thái Lan, Ucraina, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Vương quốc Anh, Mỹ, Venezuela và Yemen. Nhập khẩu gạo của Mỹ và Châu Âu được dự đoán sẽ đạt cao kỷ lục trong năm 2023.
Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại
Bộ Công thương
- dự báo cung cầu gạo li> ul>
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Tập đoàn Nhật Sojitz khai trương nhà máy chế biến thịt bò mát 10.000 tấn tại Tam Đảo
Tin mới nhất
CN,22/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất