Thức ăn và nguyên liệu thức ăn chính xác giúp cả heo nái và heo con hoạt động tốt hơn. Nếu trong khẩu phần ăn, mọi thứ đều được cân bằng hợp lý, ở cả trong dinh dưỡng cho heo nái cũng như trong dinh dưỡng heo con thì các lứa heo con sinh ra sẽ đồng đều và giảm số ngày giết mổ.
Các yếu tố dinh dưỡng quyết định sức khỏe và hiệu quả tăng trưởng của heo con, cả trước và sau khi chúng sinh ra. Ở giai đoạn sơ sinh và cai sữa, heo con cần phải phát triển một cách thống nhất toàn diện để ngăn chặn hội chứng còi cọc hoặc sự cạnh tranh thức ăn giữa các con heo. Heo nái cần nhu cầu cho ăn chính xác để đảm bảo bào thai nhận đủ chất dinh dưỡng ở mức cân bằng giúp thai phát triển ngay cả trong tử cung. Heo con chỉ nhận được kháng thể từ sữa non của mẹ trong 24 giờ đầu tiên sau khi sinh, thay vì qua nhau thai, như ở các động vật có vú khác. Tình trạng miễn dịch của heo nái và lượng globulin miễn dịch (Ig) trong sữa non của chúng rất quan trọng để giúp các lứa heo con có thể chịu được bất kỳ sự tiếp xúc nào với mầm bệnh.
Heo con phải đối mặt với những thách thức khác nhau trong tiêu hóa, hấp thụ chất dinh dưỡng và sức khỏe đường ruột, đặc biệt là lúc cai sữa. Nếu lượng ăn vào quá thấp hoặc bị rối loạn tiêu hóa thì heo con cai sữa sẽ giảm lượng chất dinh dưỡng khả dụng và bất kỳ tác động nào đến tăng trọng trung bình hàng ngày đều có thể ảnh hưởng đến năng suất của heo trong suốt giai đoạn tăng trưởng cho đến khi giết mổ. Tình trạng miễn dịch sau cai sữa là rất quan trọng, nhất là vào khoảng 2 đến 3 tuần tuổi xảy ra sự suy giảm kháng thể của heo mẹ và gọi là “khoảng cách cai sữa” khi heo con dần hình thành khả năng miễn dịch của chúng.
Một sự kết hợp của nguồn thức ăn chất lượng tốt và sử dụng các nguyên liệu thức ăn đặc biệt giúp đảm bảo sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của lứa heo con. Ảnh: Koos Groenewold
Sự kết hợp của thức ăn và nguyên liệu thức ăn
Một sự kết hợp của nguồn thức ăn chất lượng tốt và sử dụng các nguyên liệu thức ăn đặc biệt trong khẩu phần ăn của cả heo nái và heo con giúp đảm bảo yêu cầu sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của lứa heo con. Một số thành phần có hoạt tính trong ruột, chẳng hạn như các chất bổ sung thức ăn cho vi khuẩn đường ruột có thể thúc đẩy quần thể vi khuẩn phát triển và cân bằng hệ vi sinh đường ruột, do đó hỗ trợ đường ruột và sức khỏe miễn dịch. Chất lượng sữa non phụ thuộc vào các yếu tố khác ở heo nái, bao gồm di truyền, khối lượng, mức chất béo, điểm tình trạng cơ thể, tuổi tác và tình trạng bệnh tật. Một vài trong số những yếu tố này ít có khả năng kiểm soát hơn so với những yếu tố còn lại về việc quản lý và nhân viên trong trang trại. Nguyên liệu được sử dụng trong thức ăn là một trong những yếu tố có thể kiểm soát được, và heo con cần có một cơ thể tốt để hỗ trợ hiệu quả phương pháp này.
Các thành phần hoạt chất ở ruột có tính khả dụng dưới dạng được thiết kế đặc biệt để sử dụng trong thức ăn heo nái và heo con, trong đó nó đã được chứng minh trong nghiên cứu kéo dài hơn 20 năm. Cách tiếp cận này đã được chứng minh là làm tăng lượng sữa non được sản xuất và cũng làm tăng nồng độ immunoglobulin (Ig). Những dữ liệu gần đây cho thấy rằng chiến lược này có thể có lợi trực tiếp trong việc thúc đẩy các gen có liên quan đến năng suất. Cải thiện khả năng miễn dịch của heo nái sẽ thúc đẩy khả năng đồng hóa các mức Ig cao hơn từ sữa non ở heo con. Điều này đã được chứng minh trong các thử nghiệm trong đó heo nái nhận được thành phần trong thức ăn để thúc đẩy Ig trong sữa non. Khối lượng heo con sau sinh tăng đáng kể từ mức trung bình 1.509 kg lên 1.551 kg.
Cải thiện hoạt động như thế nào?
Nghiên cứu đã không chỉ xem xét cách thức cho heo nái ăn ảnh hưởng đến sự phát triển của heo con, mà còn xem xét những cải thiện này hoạt động như thế nào từ quan điểm di truyền. Người ta biết rằng một số hợp chất dinh dưỡng và thành phần hoạt tính trong ruột nhất định có thể ảnh hưởng đến gen qui định sự đóng và mở mô ruột. Trong năm 2014, một nhóm nghiên cứu do Daniel E. Graugnard đứng đầu đã báo cáo rằng IgG trong sữa non của heo nái được cho ăn với thức ăn bổ sung trong khẩu phần mang thai giúp tăng đáng kể từ 5.775 mg/dl lên 6.500 mg/dl (nhóm đối chứng). Khối lượng sơ sinh của heo con tăng 0.6kg trong lứa đẻ từ heo nái được bổ sung.
Tuy nhiên, nghiên cứu đã được tiến hành sâu hơn bằng cách phân tích những thay đổi trong chuyển đổi gen trong các tế bào từ các mẫu ruột. Từ các phân tích thông qua các đầu dò được sử dụng trong Porcine GeneChip, 397 gen được điều chỉnh giảm và 262 gen được điều chỉnh tăng trong mô không tràng heo có nguồn gốc từ heo nái được bổ sung thành phần có hoạt tính ở ruột. Các tác giả xem xét những thay đổi này liên quan đến các con đường như tín hiệu chuyển hóa đến ruột, tín hiệu đói và no, tín hiệu làm giàu tế bào và sự phát triển của mô ruột, sự tăng sinh và sự khác biệt của tế bào. Cho heo nái ăn thành phần này trong thai kỳ có thể có tác động đến sự phát triển đường ruột ở lứa heo con, cải thiện tiêu hóa và đồng hóa các chất dinh dưỡng và hỗ trợ miễn dịch.
Bổ sung qua đường miệng
Nếu cho heo nái ăn bổ sung không phải là một lựa chọn, thì heo con sơ sinh của nó có thể được bổ sung bằng đường uống với cùng một thành phần để phát huy lợi ích về sức khỏe và tốc độ tăng trưởng cho heo con. Năm 2006, Giáo sư Peter Spring thuộc trường Cao đẳng Nông nghiệp Thụy Sĩ đã báo cáo kết quả từ các thử nghiệm trong đó heo con được cho uống (lúc sinh và sau 24 giờ sau khi sinh) với cùng thành phần, và các mức Ig trong máu được ghi lại. Họ ghi nhận rằng heo con được bổ sung bằng cách uống thuốc có nồng độ IgG huyết tương trung bình lúc 3 ngày tuổi là 16 mg/ml so với 13 mg/ml ở nhóm đối chứng.
Trong một thử nghiệm được tiến hành song song, heo con cho ngưng uống theo cách tương tự, nồng độ IgG trong huyết thanh của heo con lúc 48 giờ tuổi cao hơn đáng kể ở mức 55.62 mg/ml so với 42.08 mg/ml so với nhóm không được bổ sung. Điều này giúp tăng số lượng heo con còn sống, tăng khối lượng heo con lúc 3 ngày tuổi và giảm số ngày cai sữa xuống nửa ngày (lúc thể trọng trung bình của heo con đạt 8.2kg). Do đó kết luận rằng sự gia tăng số lượng và chất lượng Ig trong sữa non của heo nái được cho ăn bổ sung có ảnh hưởng quan trọng đến sức khỏe và khả năng sống của heo con, và tiết kiệm thời gian đạt được cân nặng cai sữa cũng như mang lại lợi ích kinh tế cho nhà sản xuất.
Nên bổ sung cho cả heo nái và heo con
Đối với những lứa đẻ mà cả heo nái và heo con đều nhận được chất bổ sung, thì cho kết quả đáp ứng tốt được thể hiện qua năng suất. Trong một nghiên cứu của công ty Terry McArdle năm 2013, khi bổ sung ở mức 800 g/tấn thức ăn cho cả heo nái và heo con của chúng thì thấy khối lượng lứa heo con tăng 1.3kg khi cai sữa, tăng trọng hằng ngày thêm 123g, cải thiện tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) 0,27 và giảm 15 ngày trong các lứa đẻ, mang lại lợi nhuận và tiết kiệm tài chính.
Các thử nghiệm nuôi con bằng sữa mẹ chưa nhận được bất kỳ bổ sung nào đã tập trung vào ảnh hưởng của việc bổ sung vào thức ăn tập ăn và thức ăn khởi động. Trong năm 2015, một nghiên cứu của Giáo sư Peter Spring một lần nữa đã xem xét ảnh hưởng của việc bổ sung vào thức ăn và cách thức nó ảnh hưởng đến năng suất động vật. Đối với heo đang tăng trưởng, đáp ứng trung bình so với 123 kết quả thử nghiệm riêng biệt cho thấy cân nặng được cải thiện trung bình 4% và FCR tăng trung bình 2.3%.
Thúc đẩy tăng trưởng và sức khỏe cho heo con
Các chuyên gia đã chứng minh, heo con cần thức ăn tốt và các nguyên liệu đặc thù trong khẩu phần có thể giúp thúc đẩy sự tăng trưởng và sức khỏe của heo con theo nhiều cách. Các tài liệu về thức ăn cho vi sinh vật đường ruột được nghiên cứu qua nhiều thập kỷ về hỗ trợ hiệu quả và phương thức hành động của nó. Nó có thể được sử dụng ở heo nái mang thai hoặc các lứa heo, hoặc kết hợp, để đảm bảo tối ưu tốc độ tăng trưởng và phát triển khả năng miễn dịch phù hợp ở động vật non, đặc biệt là trong khoảng thời gian cai sữa. Những lứa heo con cai sữa trưởng thành, đồng đều sẽ có thời gian để đạt được khối lượng giết mổ ngắn hơn làm tăng tính kinh tế của sản xuất.
Biên dịch: Acare VN Team (theo PigProgress)
Nguồn: Acare Vietnam
- chăm sóc heo nái li>
- khẩu phần ăn dành cho heo nái li> ul>
- Nghiên cứu axit amin chỉ ra tiềm năng cho chế độ ăn ít protein hơn
- Bổ sung sắt uống để phòng ngừa thiếu máu ở heo con sơ sinh
- Rối loạn chất lượng thịt ức ở gà thịt hiện đại
- Vỏ yến mạch đang ngày càng phổ biến trong dinh dưỡng gia cầm
- 6 thành phần giàu chất xơ và lợi ích của chúng đối với người chăn nuôi gia cầm
- Lựa chọn chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gà thịt giống
- 6 điều có thể bạn chưa biết giúp thúc đẩy quá trình tổng hợp protein (tăng cơ bắp) ở heo
- Đất sét trao đổi ion trong thức ăn có thể thể hiện đặc tính kháng sinh
- Nghiên cứu đầu tiên về vi khuẩn nước bọt lợn cho thấy sự biến đổi cao
- Lợi ích và thách thức của urê cấp thức ăn chăn nuôi
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Tham vấn kỹ thuật phân tích chuỗi giá trị và đánh giá rủi ro trong chăn nuôi heo
- Từ 16/12, thuế suất hàng khô dầu đậu tương dùng làm thức ăn chăn nuôi được giảm xuống còn 1%
- Nghiên cứu axit amin chỉ ra tiềm năng cho chế độ ăn ít protein hơn
- Chuyển hướng nuôi bò nhốt chuồng vì hiệu quả cao
- Thị trường nhập khẩu ngô 10 tháng đầu năm 2024
- Giá sản phẩm chăn nuôi (giá tại trại) cả nước ngày 19/11/2024
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất