Hội Chăn nuôi Việt Nam: Kiến nghị phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Hội Chăn nuôi Việt Nam: Kiến nghị phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu

    [Chăn Nuôi Việt Nam] – Ngày 18/8/2025, Hội Chăn nuôi Việt Nam đã có công văn gửi Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Y tế, kiến nghị các giải pháp nhằm phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước, giảm lệ thuộc vào nhập khẩu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ngành chăn nuôi bò sữa và cung ứng sản phẩm cho thị trường.

     

    Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, ngành chăn nuôi không chỉ đảm bảo an ninh dinh dưỡng cho đất nước, mà còn là sinh kế của hàng chục triệu người nông dân. Đây không chỉ là đặc thù, mà còn là lợi thế của nông nghiệp Việt Nam, nếu chúng ta biết khai thác hợp lý vấn đề này. Cụ thể, chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa giai đoạn 2000 – 2020 đã chứng minh, Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển được ngành chăn nuôi và chế biến sữa từ nguồn nguyên liệu trong nước bằng phương thức và cách làm riêng.

     

    Sự kết hợp hài hòa giữa chăn nuôi tập trung ở các công ty lớn và chăn nuôi chuyên nghiệp trong các nông hộ đã đưa tốc độ tăng trưởng đàn bò, sản lượng sữa tươi của Việt Nam liên tục ở mức cao, với hai con số/năm, đứng đầu các nước trong khu vực, đạt được đa mục tiêu: cung cấp các sản phẩm sữa tươi chất lượng cao cho người tiêu dùng và hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của ngành chăn nuôi trong nước, hứa hẹn Việt Nam sẽ có ngành công nghiệp sữa phát triển nhanh, bền vững trong khu vực.

     

    Chăn nuôi bò sữa ở nông hộ

     

    Tuy nhiên, những năm gần đây, do thị trường sữa Việt Nam phát triển quá nóng, bùng nổ quá nhiều thương hiệu, sản phẩm sữa và từ sữa trên thị trường, nguyên liệu sữa nhập khẩu “ồ ạt” gây nhiễu loạn thị trường, áp đảo nguồn nguyên liệu trong nước, dẫn đến thực trạng là người tiêu dùng không biết lựa chọn sản phẩm sữa nào phù hợp và nguy hại hơn là tốc độ tăng trưởng của đàn bò sữa trong nước, dẫn đến thức trạng là người tiêu dùng không biết lựa chọn sản phẩm sữa nào phù hợp và nguy hại hơn là tốc độ tăng trưởng của đàn bò sữa trong nước giảm sút rất nhanh, nhất là đàn bò trong khu vực chăn nuôi nông hộ, nhiều vùng chăn nuôi bò sữa truyền thống đang trên đà phá sản, như TP Hồ Chí Minh, Ba Vì, Mộc Châu…riêng đàn bò sữa của TP Hồ Chí Minh giảm trên 50%.

     

    Chế biến sữa tại Công ty Mộc Châu Milk

     

    Hệ quả là ngành sữa nội địa đứng trước nguy cơ không đáp ứng được mục tiêu chiến lược dinh dưỡng quốc gia. Đáng lo ngại hơn, phụ thuộc nhập khẩu kéo dài sẽ khiến Việt Nam dễ tổn thương trước rủi ro thị trường quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến hàng chục triệu hộ tiêu dùng. Do đó, việc phát triển bền vững ngành sữa không chỉ góp phần giảm nhập khẩu, đảm bảo an ninh dinh dưỡng quốc gia, mà còn nâng cao thu nhập cho người nông dân, thúc đẩy hiện đại hóa nông nghiệp.

     

    Để Việt Nam thực sự có ngành sữa phát triển bền vững, như mục tiêu của Chiến lược phát triển ngành sữa Việt Nam thời kỳ 2025 – 2030, tầm nhìn 2045 được Bộ Công Thương hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ, Hội Chăn nuôi Việt Nam kính đề nghị các Bộ liên quan cần thống nhất quan điểm và giải pháp phát triển ngành sữa Việt Nam với một số nội dung sau:

     

    • Phát triển ngành sữa Việt Nam phải phát huy được những lợi thế trong nước, nhất là nguồn sữa tươi và nguyên liệu, phụ gia phong phú của ngành nông nghiệp nhiệt đới trong nước; hạn chế thấp nhất việc nhập khẩu các loại nguyên liệu mà trong nước có thể sản xuất được.

     

    • Cần phát triển chương trình dinh dưỡng (chương trình sữa) học đường bằng các sản phẩm sữa tươi, như kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã làm rất thành công, vừa giúp trẻ em có được nguồn dinh dưỡng tốt nhất, vừa thúc đẩy ngành chăn nuôi trong nước phát triển. Tiềm năng chăn nuôi gia súc cho sữa của Việt Nam, hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu này.

     

    • Cần hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định minh bạch, rõ ràng, dễ phân biệt các sản phẩm sữa và từ sữa, nhất là giữa sữa tươi với sữa nước, để người tiêu dùng biết trong lựa chọn sử dụng và người sản xuất, kinh doanh, cơ quan quản lý thực hiện.

     

    • Đưa quy định, bắt buộc các cơ sở sản xuất, kinh doanh sữa phải có vùng hoặc gắn với vùng nguyên liệu sữa nguyên liệu trong nước, hoặc phải sử dụng tối thiểu bao nhiêu % nguyên liệu sữa tươi trong nước (thường là từ 5-20%). Vì sữa tươi có lợi cho người tiêu dùng, nhưng ít lợi nhuận nhất đối với người kinh doanh, nên không chỉ các quốc gia có ngành sản xuất sữa phát triển, mà ngay ở các nước kém phát triển trong khu vực như Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc cũng đều có quy định này. Ví dụ, Philippines tại Đạo luật Cộng hòa số 7884 về phát triển ngành sữa quốc gia năm 1995, Mục 17 quy định, các nhà chế biến, kinh doanh sữa thương mại phải mua tối thiểu 5% nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước. Doanh nghiệp mua vượt mức 5% sẽ được hưởng khoản tín dụng, thuế ưu đãi 10% giá trị của phần mua vượt mức này.

     

    Hội Chăn nuôi Việt Nam đề nghị Bộ trưởng Bộ Công thương, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Y tế có ý kiến chỉ đạo các cơ quan chức năng, thống nhất quan điểm và giải pháp toàn diện ngành sữa Việt Nam trong quá trình xây dựng Chiến lược và chính sách, pháp luật thực hiện Chiến lược ngành sữa Việt Nam, phát triển vì mục tiêu cao cả nhất cho sức khỏe cộng đồng và sản xuất trong nước.

     

    KÍNH MỜI QUÝ ĐỘC GIẢ XEM CÔNG VĂN SỐ 82 TẠI ĐÂY: CV số 82 – phát triển thị trường sữa trong nước (1)

     

    PHƯƠNG NHUNG

    Tăng trưởng đàn bò và sản lượng sữa nguyên liệu trong nước

     

     

    Đàn bò sữa trong nước, sau một giai đoạn tăng trưởng mạnh ở mức 2 con số 15,4%/năm giai đoạn 2010 – 2015, đã giảm xuống rất nhanh, chỉ còn 1,9%/năm trong giai đoạn 2015-2020 và còn 0,4%/năm giai đoạn 2020-2024. Sự suy giảm này dẫn tới không đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển ngành chăn nuôi, là đến năm 2025 tổng đàn bò sữa phải đạt khoảng 500.000 con (thực tế hiện nay mới chỉ đạt được khoảng 330.000 con, bằng 65%). Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời thì đến năm 2030, tổng đàn bò sữa cả nước không thể đạt được mục tiêu kế hoạch là 650.000-670.000 con.

     

    Tương tự như đàn bò, tốc độ tăng trưởng về sản lượng sữa tươi nguyên liệu cũng giảm nhanh, từ 17,7%/năm giai đoạn 2010-2015, xuống còn 6,7%/năm giai đoạn 2015-2020 và chỉ còn 3,3%/năm giai đoạn 2020-2024. Nêu không có sự điều chỉnh kịp thời, thì đến năm 2030 không thể đạt được mục tiêu kế hoạch 2,6-2,8 triệu tấn sữa tươi, đảm bảo 25-26 kg sữa/người và chủ trương tự túc được 60% nguyên liệu cho ngành công nghiệp sữa cũng không thể thành hiện thực.

     

    Ngược lại với 2 chỉ tiêu trên, năng suất sữa của đàn bò trong nước tăng nhanh, từ trung bình khoảng 5 tấn/con/chu kỳ trong giai đoạn 2010-2015, đã lên trên 7 tấn/con/chu kỳ trong giai đoạn 2020-2024, là tốc độ tăng rất nhanh mà không phải nước nào cũng làm được. Với năng suất sữa trung bình toàn đàn như trên, đã đưa Việt Nam trở thành nước có năng suất bò sữa cao nhất trong khu vực. 

     

    Vấn đề đàn bò sữa của khu vực chăn nuôi nông hộ đang giảm nhanh, rất cần được tổng kết đánh giá nghiêm túc, để tìm ra giải pháp khôi phục đàn bò sữa ở khu vực này. Vì Việt Nam cần phát triển đàn bò sữa theo 2 phương thức, mới có thể duy trì được quy mô đàn bò và thị phần sữa trong nước, đó là: Nuôi tập trung thâm canh cao như các tập đoàn có tiềm năng lớn đang làm, và phát triển chăn nuôi trong các nông hộ chuyên nghiệp với quy mô giao động từ 20-100 con/hộ, lý tưởng là từ 30-50con/hộ, sẽ rất có hiệu quả, do tận dụng được nguồn lao động chăm chỉ trong nông thôn và nguồn phụ phẩm rất đa dạng trong nông nghiệp, công nghiệp chế biến của Việt Nam mà không phải nước nào cũng có.

     

    Vấn đề quản lý sản xuất kinh doanh sữa và sản phẩm từ sữa của nước ta phải được xem xét, đánh giá lại một cách bài bản và trách nhiệm cho lâu dài, đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họat động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, nhưng đây là lĩnh vực kinh doanh không chỉ tôn trọng pháp luật, mà rất cần tới đạo đức, trách nhiệm cộng đồng với người tiêu dùng và người chăn nuôi trong nước, đối tượng yếu thế nhất trong chuỗi sản phẩm hàng hóa đặc biệt này.

     

    Khả năng tự chủ nguồn nguyên liệu sữa tươi của Việt Nam

     

    Với mục tiêu phấn đấu, từ sau năm 2030 trở đi, Việt Nam có thể tự chủ được khoảng 60% nguồn nguyên liệu sữa tươi cho ngành công nghiệp sữa, để đến năm 2045 có thể đưa sản lượng sữa các loại/người của Việt Nam, đạt khoảng 100 kg/người/năm. Những chỉ tiêu này hoàn toàn có thể trở thành hiện thực bởi không gian chăn nuôi và thị trường sữa của Việt Nam còn rất rộng lớn. So với các nước có nền chăn nuôi bò sữa phát triển và các nước có điều kiện tương đồng, thì không gian chăn nuôi bò và gia súc cho sữa của Việt Nam còn rất lớn. Quy mô đàn bò và gia súc cho sữa của nước ta hiện nay chưa tương xứng với điều kiện tự nhiên, tiềm năng lao động, khả năng đầu tư và thị trường tiêu thụ các loại sữa, sản phẩm từ sữa.

     

    Bình quân số bò sữa /1000 người dân năm 2024

     

    Số lượng bò sữa bình quân/1.000 người dân của Việt Nam còn quá thấp: 3,3 con/1000 người, chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan, Nhật Bản; gần bằng ½ so với Hàn Quốc; bằng ¼ so với Isael và chỉ bằng 1/26 so với Hà Lan. Rõ ràng là quy mô đàn bò sữa của Việt Nam là chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta. Nếu xét về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, thì Việt Nam hiện nay có không gian chăn nuôi gia súc cho sữa lớn hơn Nhật Bản và Isael. Chúng ta hoàn toàn có thể đưa được đàn bò sữa lên gấp 4 – 5 lần so với con số hiện nay trong những năm 2030, nghĩa là khi đó đàn bò sữa trong nước có thể đạt từ 1,3-1,5 triệu con và sản lượng sữa tươi nguyên liệu có thể đạt từ 4,3 – 5,0 triệu tấn.

     

    (Phụ lục kèm theo công văn số 82 CV/HCN ngày 18/8/2025 của Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam)

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Ngọc đức
  • Tôi rất quan tâm 0977794679

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.