“Lượng ăn vào không ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho trong khẩu phần ăn cho heo nái mang thai, nhưng heo nái mang thai có khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho kém hơn so với heo nái tơ đang phát triển”, điều này được công bố trên tạp chí Canadian Science of Animal Science. Các tác giả bao gồm Su Lee, Gloria Casas, và Hans Stein.
Hầu hết các tỷ lệ tiêu hóa của canxi và phốt pho được xác định ở heo choai, và kết quả đó được áp dụng cho heo ở các giai đoạn khác nhau, bao gồm heo nái mang thai và heo nái cho con bú. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy heo nái có thể không hấp thu được một số chất dinh dưỡng nhất định giống như heo choai.
Trong một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Khoa học Động vật Canada, các nhà khoa học thuộc Đại học Illinois đã tiết lộ rằng heo nái mang thai bị giảm khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho so với heo choai.
Hans H. Stein, giáo sư tại Đại học Illinois và các tác giả liên quan đến nghiên cứu, trình bày rằng: “một điều cần chú ý đó là có rất nhiều heo nái đã bị loại trong các đàn gia súc thương phẩm vì bệnh đau móng, có thể liên quan đến canxi và phốt pho – hai khoáng chất phổ biến nhất trong xương”. “Những kết quả này có thể có liên quan đến tuổi thọ của heo nái trong đàn. Do đó chúng ta cần phải tiến hành nhiều nghiên cứu nhiều hơn trước để có kết luận chính xác.”
Stein và các nhà nghiên cứu ở Illinois, Su A. Lee và Gloria A. Casas đã cho 48 con heo nái mang thai và 24 con heo nái tơ đang phát triển ăn 3 khẩu phần khác nhau. Các khẩu phần bao gồm: khẩu phần 1: bắp-đậu nành tiêu chuẩn; khẩu phần 2: 60% bắp-đậu nành và 40% cám gạo nguyên béo (FFRB); và khẩu phần 3: 60% bắp-đậu nành và 40% cám gạo đã khử béo (DFRB).
Trong khẩu phần cơ bản bao gồm 1.15% dicalcium phosphate và 0.8% đá vôi, trong khi khẩu phần có chứa FFRB hoặc DFRB chỉ có đá vôi (1.64%). Phân tích canxi và phốt pho trong ba khẩu phần lần lượt là 0.65% và 0.6% trong khẩu phần cơ bản; 0.66% và 0.98% trong khẩu phần FFRB; và 1.16% và 1.09% trong khẩu phần DFRB. Bổ sung phytase trong tất cả khẩu phần, với giá trị nằm giữa 430 và 690 đơn vị phytase cho mỗi kg khẩu phần hoàn chỉnh.
Bởi vì heo choai được cho ăn tự do trong khi heo nái mang thai bị hạn chế thức ăn, Stein cho biết khó có thể xác định có sự khác biệt về khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng hoặc lượng ăn vào. Do đó, heo nái được cho ăn cả ba khẩu phần ở mức 1.5 hoặc 3.5 lần nhu cầu duy trì năng lượng và heo nái tơ được cho ăn gấp 3.5 lần nhu cầu duy trì.
Mức tiêu thụ thức ăn không ảnh hưởng đến tổng khả năng tiêu hóa biểu kiến tổng thể (ATTD) của canxi hoặc phốt pho ở heo nái mang thai, nhưng ATTD của cả hai loại khoáng đều giảm ở heo nái so với heo nái tơ đang phát triển.
“Phytase là một hợp chất trong ngũ cốc liên kết với phốt pho và canxi,” Stein giải thích. “Chúng tôi muốn xác định xem có sự khác biệt giữa phytate cao và thấp trong hai nhóm không. Đối với heo choai, đúng như chúng ta mong đợi: Khẩu phần chứa phytate cao có khả năng tiêu hóa thấp hơn khẩu phần chứa phytate thấp. Nhưng không có sự khác biệt nào đối với heo nái giữa khẩu phần chứa phytate cao và thấp. Đối với cả hai, giá trị tiêu hóa thấp hơn nhiều so với những gì chúng ta thấy ở heo choai”.
Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy sự khác nhau về khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho ở heo nái và heo choai. Stein dự định nghiên cứu tìm hiểu lý do tại sao lại tồn tại sự khác nhau và sự khác biệt đó tại sao lại đúng trong toàn bộ giai đoạn mang thai và cho con bú. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu này cho thấy rằng có thể không nên áp dụng kết quả từ heo choai cho heo nái mang thai.
Stein nói: “Có thể trong tương lai chúng ta sẽ cần sử dụng các giá trị tiêu hóa khác nhau cho Ca và P khi chúng ta tổ hợp khẩu phần cho heo nái so với heo choai”. “Điều này có thể cải thiện độ chính xác của khẩu phần, nhưng chúng tôi cần nghiên cứu thêm trước khi chúng tôi có thể đưa ra khuyến cáo về điều này”.
Biên dịch: Ecovet Team
(theo Nationalhogfarmer)
Nguồn tin: Ecovet VN
- heo nái mang thai li> ul>
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
- Những lợi ích thực tế của bã bia trong thức ăn cho bò sữa
- Một sức khỏe – Cách tiếp cận toàn diện giúp cải thiện an toàn thực phẩm
- Thị trường nguyên liệu thức ăn cho thú cưng: Đa dạng và chất lượng
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất