[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Học viện Nông nghiệp Việt Nam chú trọng công tác nghiên cứu tạo ra các công nghệ và các sản phẩm mới, có tính ứng dụng cao, phục vụ cho tái cơ cấu nông nghiệp – phát triển nông thôn, góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững, giá trị gia tăng cao.
Đó là thông điệp được GS. TS. Nguyễn Thị Lan – Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đưa ra tại Hội nghị “Khoa học công nghệ Học viện Nông nghiệp Việt Nam: Công nghệ, sản phẩm mới” vừa được tổ chức ngày 18/5/2022.
Trong giai đoạn 2019-2021, mặc dù trong bối cảnh dịch covid -19 diễn ra phức tạp, hoạt động khoa học và công nghệ của Học viện đã đạt được thành tích đáng khích lệ, số lượng và kinh phí đề tài tăng (đặc biệt là đề tài cấp quốc gia, hợp tác quốc tế, nghiên cứu cơ bản và cấp tỉnh/doanh nghiệp) (kinh phí tăng 17%). Số lượng các tiến bộ kỹ thuật/Bằng sáng chế/Giải pháp hữu ích tăng mạnh, đặc biệt là các công bố quốc tế (tăng 10%)(riêng các tạp chí ISI/Scopus tăng 33% so với năm 2018).
GS.TS. Nguyễn Thị Lan, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phát biểu chào mừng Hội nghị, GS.TS. Nguyễn Thị Lan, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam khẳng định: Khoa học và Công nghệ là sức sống của trường đại học, có ý nghĩa quan trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, vai trò của đội ngũ trí thức, trường đại học trong việc phát triển KHCN và đóng góp cho nền kinh tế trí thức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thấm nhuần chủ trương đó, Học viện đã rất tích cực hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của Học viện còn có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp nguồn lực và trí tuệ cho sự phát triển Kinh tế – Xã hội của địa phương, đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo chủ chương của Đảng, Chính phủ và Bộ NN&PTNT.
Chính vì vậy, trong những năm qua, Học viện đã chủ động khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực để đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học công nghệ. Học viện đã thực hiện phân cấp quản lý theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đạt được một số kết quả quan trọng như: tăng số lượng đề tài, dự án khoa học công nghệ nhờ vào tăng cường hợp tác trong và ngoài nước; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tiếp cận trình độ quốc tế, và đã những đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Với mục tiêu nâng cao vị thế, vai trò của Học viện, ngoài việc tăng cường công bố quốc tế, Học viện chú trọng công tác nghiên cứu tạo ra các công nghệ và các sản phẩm mới, có tính ứng dụng cao, phục vụ cho tái cơ cấu nông nghiệp – phát triển nông thôn, góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững, giá trị gia tăng cao. Chính vì vậy Đảng ủy, Ban giám đốc đã chỉ đạo quyết liệt việc đổi mới công tác tổ chức, hoàn thiện quy định quản lý hoạt động Khoa học và Công nghệ, thành lập các nhóm nghiên cứu (nhóm Nghiên cứu mạnh, Nghiên cứu tinh hoa), đăng ký chuẩn ISO cho các phòng thí nghiệm, xây dựng các mô hình Khoa học và Công nghệ…Đặc biệt là việc chỉ đạo thành lập các Viện nghiên cứu, các Doanh nghiệp khởi nguồn Khoa học và Công nghệ Spin off. Đây chính là tiền đề, là nền tảng cho hoạt động KH&CN trong những năm vừa qua.
Bác Hồ đã chỉ đạo”…Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân… ” Đây chính là kim chỉ nam cho hoạt động khoa học và công nghệ trong cả nước.
Chính vì vậy, tôi mong muốn rằng các nhà khoa học, các thầy cô giáo sẽ nỗ lực, tập trung hơn nữa trong nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm KH&CN phục vụ thiết thực cho xã hội, góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu của Học viện.
Tôi tin tưởng rằng, với sự quyết tâm của Lãnh đạo Học viện, sự tâm huyết của đội ngũ cán cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên, người lao động và của các em sinh viên, đặc biệt là hiệu quả hoạt động của các nhóm nhóm nghiên cứu mạnh đang dần được nâng cao và đi vào nề nếp, hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của Học viện sẽ đạt được nhiều thành tích cao hơn nữa trong năm học tới”, GS TS Nguyễn Thị Lan khẳng định.
TS Trần Hiệp – Phó Trưởng Ban Khoa học Công nghệ (Học viện Nông nghiệp Việt Nam)
Theo TS Trần Hiệp – Phó Trưởng Ban Khoa học Công nghệ (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) một số công nghệ và sản phẩm nổi bật giai đoạn 2019-2021 của Học viện được chuyển giao và thương mại hóa đó là: giống lúa GCG66 của nhóm nghiên cứu Phạm Văn Cường và cs; giống lúa HQ21 của Trần Văn Quang và cs; nếp tím lai VNUA 141 (Vũ Văn Liết và cs); giống khoai tây Bliss (Nguyễn Xuân Trường và cs); một số quy trình sản xuất bón hữu cơ dùng cho rau, củ thay thế 25-50% phân vô cơ; dòng lợn kháng Dịch tả lợn châu Phi; que thử thai bò VNUA BQT (Phạm Kim Đăng và cs); chế phẩm VNUA-BIOMIX (Nguyễn Bá Hiên và cs); sản xuất Ba ba gai giống (Kim Văn Vạn và cs); kit test nhanh Real-time PCR chẩn đoán bệnh ASF của nhóm tác giả Lê Văn Phan và cs..
Một số công nghệ tiềm năng đó là: các giống cà chua mầu baby socola; công nghệ gây rụng trứng chủ động và cấy truyền phôi tươi; phần mềm chẩn đoán bệnh gà; nghiên cứu và ứng dụng các hoạt chất sinh học trong chế biến thịt..
Các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam giới thiệu các sản phẩm khoa học công nghệ tại Hội nghị
Cũng theo TS Trần Hiệp, một số điểm đạt được trong hoạt đông nghiên cứu khoa học, công nghệ của Học viện đó là các nhóm nghiên cứu bước đầu đã phát huy hiệu quả và tăng cường công bố quốc tế; thích ứng với Covid-19; duy trì số lượng các đề tài/dự án và tăng công bố quốc tế…
Điểm chưa đạt kỳ vọng đó là việc đăng ký sở hữu trí tuệ chậm; tỷ lệ sản phẩm khoa học công nghệ được thương mại hóa chưa nhiều và tiến độ xây dựng các spin off (một hình thức thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ phổ biến trong các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu) còn chậm, từ đó ảnh hưởng đến việc chuyển giao công nghệ và thương mại hóa các sản phẩm khoa học công nghệ.
Phương hướng hoạt động giai đoạn 2022-2023 trong công tác nghiên cứu khoa học công nghệ của Học viện đó là hoàn thiện các quy định, hình thành môi trường nghiên cứu bằng cách thu hút chuyên gia đầu ngành trong nước và quốc tế; tiếp tục phát huy hoạt động của các nhóm nghiên cứu theo hướng tinh gọn và hiệu quả; tăng cường chuyển giao công nghệ và thương mại hóa khoa học công nghệ bằng việc đăng ký sở hữu trí tuệ; triển khai quy định về logo, chuyển giao công nghệ; tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp để hoàn thiện các công nghệ/sản phẩm tiềm năng; tiếp tục hình thành spin-off; xây dựng chương trình nghiên cứu dài hạn của Học viện như: gen đặc hữu, giá trị kinh tế cao, vắc xin, chế phẩm sinh học.
Một số hình ảnh khác tại Hội nghị:
Vinh danh các em sinh viên có thành tích tốt trong nghiên cứu khoa học công nghệ trong giai đoạn 2019-2021
Vinh danh các cán bộ, giảng viên trẻ có thành tích trong nghiên cứu khoa học
Vinh danh 5 nhóm nghiên cứu có thành tích xuất sắc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng ký kết hợp tác với các địa phương và doanh nghiệp
Các đại biểu tham dự Hội nghị chụp ảnh lưu niệm nhân ngày Khoa học Công nghệ 18/5
HÀ NGÂN
Học viện có 14 Khoa chuyên môn, 10 Viện nghiên cứu & 11 Trung tâm; 02 bệnh viện, 6 Spin off, tuy nhiên trong khuôn khổ Hội nghị, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giới thiệu một số công nghệ và sản phẩm tiêu biểu của 04 Viện nghiên cứu mới thành lập: Viện Nghiên cứu Tăng trưởng xanh, Viện Nghiên cứu vi tảo và dược mỹ phẩm; Viện Nghiên cứu và phát triển nấm ăn, nấm dược liệu; Viện Nghiên cứu và Phát triển cây Dược liệu. Trong thời gian tới đây, Học viện sẽ tiếp tục giới thiệu các công nghệ và sản phẩm tiêu biểu của các đơn vị.
Các sản phẩm của Viện Nghiên cứu tăng trưởng Xanh phục vụ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
- Học viện Nông nghiệp Việt Nam li>
- chăn nuôi li>
- nuôi trồng thủy sản li> ul>
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Tham vấn kỹ thuật phân tích chuỗi giá trị và đánh giá rủi ro trong chăn nuôi heo
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Tham vấn kỹ thuật phân tích chuỗi giá trị và đánh giá rủi ro trong chăn nuôi heo
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất