Nuôi 30 con chồn hương sinh sản, doanh thu 300 triệu đồng/năm - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Nuôi 30 con chồn hương sinh sản, doanh thu 300 triệu đồng/năm

    Với 30 con chồn hương sinh sản và 20 con chồn thương phẩm, mỗi năm gia đình anh Đức thu về khoảng 300 triệu đồng.

    Anh Nguyễn Minh Đức kiểm tra chuồng nuôi chồn hương sinh sản của gia đình. Ảnh: T. Phùng.

     

    Anh Nguyễn Minh Đức (ở xã Thuận Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình) vốn là kỹ sư xây dựng nên có những năm tháng bôn ba khắp nơi nên vẫn thầm mong ngày quay về quê hương lập nghiệp.

     

    Trong chuyến công tác tại tỉnh Bình Thuận, anh Đức thấy có mô hình nuôi chồn hương khá hiệu quả, cho thu nhập cao nên có ý học hỏi kinh nghiệm và nuôi ý chí khởi nghiệp bằng mô hình này.

     

    “Cho đến năm 2016, tôi quyết định bỏ nghề xây dựng, đi tìm hiểu cách nuôi chồn hương và về quê để thực hiện ước mong của mình”, anh Đức nói như tâm sự.

     

    Khởi nghiệp, với số vốn dành dụm và vay thêm bạn bè, anh Đức mua 4 cặp chồn hương sinh sản (với trị giá trên 80 triệu đồng), về nuôi thử nghiệm.

     

    “Nhưng do thiếu kinh nghiệm, chưa nắm vững kỹ thuật, cũng như chưa hiểu tập tính sinh sống của loài chồn cùng với việc nguồn giống không bảo đảm nên chồn sinh bệnh và chết dần”, anh Đức kể lại.

     

    Thất bại ngay từ buổi đầu nên gia đình khuyên dừng lại vì sự mất thêm vốn. Nhưng anh Đức vẫn không nản chí mà như thêm quyết tâm với việc nghiên cứu kỹ cách nuôi chồn hương trên báo, đài, mạng internet để tiếp tục… thử nghiệm.

     

    Cuối năm đó, anh lại khăn gói vào Bình Thuận để “tầm sư học đạo” thêm kinh nghiệm và mua 2 cặp chồn sắp sinh sản về nuôi. Lần này thì anh phải đến tận trang trại giống vừa để chọn con giống tốt cũng như học cách nuôi chồn sinh sản để về thực hành.

    Thức ăn cho vật nuôi dễ kiếm và không đắt tiền nên dễ dàng cho người nuôi. Ảnh: T. Phùng.

     

    “Làm nhiều có kinh nghiệm”, anh Đức nói và cho biết, nhiều năm nuôi, không những nắm bắt được đặc tính, cách ăn uống, sinh sản, môi trường sống của loài chồn ở vùng khí hậu khắc nghiệt Quảng Bình.

     

    “Tôi đã biết cách phòng ngừa các bệnh thường gặp như tiêu chảy, thương hàn, cầu trùng, rụng lông… Để qua đó vững tâm hơn trong việc phát triển mô hình”, anh Đức cho hay.

     

    Khi trò chuyện, anh Đức cũng bảo nuôi chồn hương mà biết cách thì rất dễ, lại nhàn thân. Giống này ăn rất ít thức ăn và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Các món mà chúng “khoái khẩu” nhất là cháo cá, thịt gà, cá rô sống, chuối, mít chín,…

     

    “Nếu ở vùng quê thì nguồn thức ăn cũng sẵn và không đắt. Trung bình, chi phí thức ăn mỗi ngày cho mỗi con chồn nuôi vào khoảng 3.000 đồng”, anh Đức nói thêm.

     

    Cũng theo anh Đức, đặc tính của vật nuôi là nhút nhát, ngủ ngày, ăn đêm nên khu chuồng trại phải làm nơi yên tĩnh, tránh tiếng ồn. Người nuôi phải giữ chuồng luôn sạch sẽ, phải dọn vệ sinh hàng ngày và thường xuyên khử trùng để hạn chế dịch bệnh.

     

    “Nếu thời tiết nắng, mưa khắc nghiệt như ở Quảng Bình nên áp dụng mùa hè bảo đảm thoáng mát, mùa đông phải che chắn và giữ ấm cho chồn nuôi”, anh Đức chia sẻ thêm.

     

    Đến nay, gia trại của anh Đức có 30 con chồn sinh sản, mỗi năm đẻ gần 100 con chồn giống. Khi xuất bán giống, giá mỗi cặp khoảng 10 triệu đồng. Mỗi năm, sau khi trừ chi phí, thu về cho anh khoảng 300 triệu đồng.

     

    Anh Đức cho biết: “Hiện đầu ra của chồn thương phẩm cũng như chồn giống tương đối dễ, vì thị trường đang có nhu cầu cao. Vì vậy, việc phát triển nghề nuôi chồn hương cũng ổn định kinh tế và có thu nhập cao”.

     

    Trao đổi về kinh nghiệm nuôi chồn hương sinh sản, anh Đức nói khá cụ thể cho khách hàng. Chồn mẹ sau 12-14 tháng nuôi bắt đầu sinh sản. Mỗi năm, chồn thường đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa 4-6 con.

     

    Trong thời gian này, người nuôi phải nhận biết được biểu hiện động đực của con cái để cho phối giống.

     

    “Khi chồn sinh sản có chửa thì phải được bổ sung đầy đủ chất dinh dưỡng để tránh trường hợp chồn mẹ ăn con non khi bị thiếu chất”, anh Đức nói thêm.

     

    “Mỗi người mỗi kinh nghiệm để áp dụng”, anh Đức nói. Ở những mô hình nuôi khác, họ thường tách con non sớm, nhưng cách nuôi của anh Đức chỉ cho chồn sinh sản 1 lần trong năm.

    Chồn giống được bán với giá khoảng 10 triệu đồng/cặp, cũng là nguồn thu khá cao cho người nuôi. Ảnh: T. Phùng.

     

    Do đó, cho chồn mẹ tự nuôi con đến 2 tháng mới tách và cho ăn riêng. Đó cũng là phương pháp nâng cao chất lượng cũng như tăng tỷ lệ sống của chồn con.

     

    Một kinh nghiệm nữa mà anh Đức trao đổi, đó là muốn có nguồn giống chất lượng thì con đực vẫn là yếu tố then chốt, con đực to khỏe chất lượng giống mới cao.

     

    “Vì vậy mà cách đây bốn năm, tôi bỏ gần 40 triệu đồng để mua một con giống tốt về để nuôi chồn sinh sản có chất lượng cao”, anh Đức cho biết.

     

    Theo đánh giá của Phòng NN-PTNT huyện Tuyên Hóa, đây là mô hình có thể nhân rộng để giúp người dân chuyển đổi và phát triển kinh tế.

     

    Ông Phạm Anh Minh, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Tuyên Hoá, cho biết, sẽ tổ chức lớp tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm cho người có điều kiện có thể áp dụng làm mô hình. Qua đó, phát triển nuôi chồn tại hộ gia đình sẽ hạn chế được việc săn bắt động vật rừng nguy cấp, quý hiếm.

     

    “Tuy nhiên, để duy trì và nhân rộng mô hình cần quan tâm đến một số vấn đề như vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã, tích lũy kinh nghiệm nuôi và phòng trừ bệnh tật, thị trường tiêu thụ”, ông Minh nói thêm.

     

    Tâm Phùng

    Nguồn: nongnghiep.vn

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.