Sản lượng thịt lợn tại EU-27 trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 2% - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Sản lượng thịt lợn tại EU-27 trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 2%

    Theo thông tin từ AHDB, sản lượng thịt lợn tại EU-27 trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 10,5 triệu tấn, tăng trưởng 2% so với 6 tháng đầu năm 2023.

    Sản lượng tăng ở hầu hết các quốc gia EU, trong đó Ba Lan tăng mạnh nhất lên 80.000 tấn, đạt 934.000 tấn trong 6 tháng đầu năm 2024. Đức là thị trường sản xuất thịt lợn lớn thứ hai tại EU đạt gần 2,1 triệu tấn, tăng gần 19.000 tấn; sản lượng của Đan Mạch tăng 2% lên 673.000 tấn. Tuy nhiên, Tây Ban Nha (thị trường sản xuất lớn nhất EU) giảm hơn 27.000 tấn xuống còn 2,46 triệu tấn.

     

    Nhìn chung, sản lượng tăng là do số lượng giết mổ tăng. Số lượng giết mổ ở khối EU-27 trong 6 tháng đầu năm 2024 đã tăng 122.000 con, đạt gần 110 triệu con. Số lượng lợn giết mổ của Ba Lan tăng 634.000 con (7%) lên 9,7 triệu con, Đức tăng 46.000 con lên 21,9 triệu con. Mặc dù sản lượng của Đan Mạch tăng, nhưng số lượng lợn giết mổ đã giảm 248.000 con (3%) xuống còn 7,2 triệu con, chứng tỏ trọng lượng lợn nặng hơn; số lượng lợn giết mổ của Tây Ban Nha giảm mạnh nhất, từ 460.000 con xuống còn 26,2 triệu con.

     

    Lượng thịt lợn nhập khẩu của EU (bao gồm cả nội tạng) trong 6 tháng đầu năm 2024 đã giảm 3.500 tấn so với cùng kỳ năm năm 2023, xuống còn 69.900 tấn. Vương quốc Anh vẫn là thị trường cung cấp khối lượng thịt lợn lớn nhất cho EU, với 48.900 tấn, chiếm 70% thị phần, giảm 3.500 tấn so với cùng kỳ năm 2023.

     

    Chile hiện là thị trường cung cấp nhập khẩu lớn thứ hai cho EU. Khối lượng thịt lợn EU nhập khẩu từ Chile đã tăng đáng kể trong hai năm qua và đạt 10.500 tấn trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng 6.700 tấn so với cùng kỳ năm 2023. Việc phê chuẩn thỏa thuận khung nâng cao EU – Chile vào năm 2022 cho phép thịt lợn Chile xuất khẩu nhiều hơn vào thị trường EU, mà không cần tự do hóa hoàn toàn đối với các mặt hàng nông sản nhạy cảm.

     

    Lượng thịt lợn xuất khẩu của Thụy Sĩ sang EU trong 6 tháng đầu năm 2024 đã giảm 4.400 tấn so với cùng kỳ năm trước xuống còn 5.800 tấn, trong đó thị phần giảm từ 14% trong sáu tháng đầu năm 2023 xuống còn 8% trong 6 tháng đầu năm 2024.

     

    Khối lượng xuất khẩu thịt lợn của EU trong 6 tháng đầu năm 2024 đã đạt tổng cộng 1,93 triệu tấn, giảm 4% (84.600 tấn) so với cùng kỳ năm trước, mặc dù sản lượng tăng; trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc và Nhật Bản giảm mạnh, trong khi đó xuất khẩu sang Mỹ và các nước Đông Nam Á khác tăng trưởng về khối lượng.

     

    Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất cho xuất khẩu thịt lợn của EU, chiếm 29% thị phần, với tổng khối lượng là 550.000 tấn trong 6 tháng đầu năm 2024, giảm 80.500 tấn (13%) so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, trong tổng khối lượng này, nội tạng tăng 10.000 tấn so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức 316.000 tấn. Xuất khẩu của EU sang Trung Quốc cũng gặp khó khăn tương tự như Vương quốc Anh, với sự cạnh tranh mạnh trên thị trường từ Brazil, Mỹ và Canada, kết hợp với nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn khiến người tiêu dùng tìm kiếm những loại thịt giá cả phải chăng hơn.

     

    Do sản lượng chung của EU tăng, cùng với nhu cầu trong nước và quốc tế ảm đạm, giá giảm g do nguồn cung vượt cầu. Giá lợn loại S của EU tiếp tục giảm xuống còn 179,49 xu/kg trong tuần kết thúc vào ngày 01/9/2024, giảm 2,7 xu so với tuần trước đó. Đây là tuần thứ ba liên tiếp giá giảm, sau một thời gian ổn định. Tất cả các nước sản xuất chính đều giảm, với mức giảm lớn nhất là hơn 5 xu/kg ở Đan Mạch, do đó chênh lệch giữa giá EU và Vương quốc Anh đã tăng lên gần 33 xu/kg, mức chênh lệch lớn nhất kể từ tháng 2/2024.

     

    Nguồn: Vinanet/VITIC/euromeatnewsa

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.