[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Điểm yếu lớn nhất của ngành chăn nuôi gia cầm nước ta đó là giá thành sản xuất các sản phẩm gia cầm còn khá cao, khả năng cạnh tranh thấp so với các sản phẩm cùng loại nhập từ nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, đây là vấn đề rất lớn, có tính quyết định sống còn đến ngành sản xuất gia cầm trong nước. Làm sao để khắc phục những điểm yếu này? Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam xin giới thiệu với quý độc giả góc nhìn của GS TS Nguyễn Duy Hoan – Trường Đại học Thái Nguyên (ảnh).
Giá thịt gà nước ta cao hơn các nước khác trong khu vực và trên thế giới
Theo kết quả nghiên của nhóm Nghiên cứu quốc tế của do Giáo sư Peter van De Horne chủ trì thực hiện năm 2018, cho thấy giá thành thịt gà của Việt Nam cao thứ 6 trong số 9 nước được khảo sát, cụ thể là: chi phí để sản xuất 1 kg gà thịt của Việt Nam khoảng 126 cent-USD (tương đương khoảng 29 ngàn đồng/kg), cao hơn khá nhiều so với Trung Quốc (96 cent), Mỹ (106 sent), Thái Lan (116 sent); chỉ thấp hơn chút ít so với một số nước như Nga (130 cent), EU (134 cent)…
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới giá thành cao là do chi phí thức ăn 87 cent/kg (chiếm 69,5 % giá thành) cao hơn các nước 12-25 cent/kg, chi phí điện nước, nhà xưởng 14 cent/kg cao hơn 2-5 cent; chi phí khác như công tác quả lý, chi phí vận chuyển… 15 cent/kg thuộc nhóm nước có chi phí cao nhất… Ngoài chi phí sản xuất thì chi phí trung gian bao gồm chi phí cho các thương lái, chi phí giết mổ, chi phí bán hàng… của Việt Nam cũng khá cao (20 cent/kg) trong khi trung bình ở các nước khảo sát chỉ khoảng 17 cent/kg.
Ngoài kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu Quốc tế nêu trên, chúng tôi cũng đã trực tiếp khảo sát 12 doanh nghiệp có quy mô chăn nuôi gà lớn thuộc Hiệp hội Gia cầm Việt Nam. Kết quả sản xuất 6 tháng đầu năm 2019 của các cơ sở này cho thấy các đơn vị đã rất nỗ lực cải tiến để giảm giá thành chăn nuôi, đặc biệt là các trang trại chăn nuôi gà trắng quy mô lớn đã giảm giá thành chỉ còn 24.000 – 25.000đ/kg. Tuy nhiên, đây vẫn là mức cao nếu so với giá thành chăn nuôi gà của Mỹ và một số nước trong khu vực thời điểm hiện tại (Mỹ: 16-17 ngàn đồng/kg; Trung Quốc: 14.000-15 000 đồng/kg và Thái Lan 19-20 ngàn đồng/kg. Đây là lý do chính làm cho các trang trại chăn nuôi gà tại nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong những tháng gần đây.
3 nguyên nhân làm sản xuất gia cầm ở Việt Nam cao
Theo chúng tôi có 3 nhóm nguyên nhân làm cho giá thành sản xuất các sản phẩm gia cầm Việt Nam còn cao hơn so với các nước, đó là:
Một là, chăn nuôi gia cầm ở nước ta phần lớn theo hình thức tự phát, quy mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao (Theo Tổng cục thống kê, năm 2019 cho thấy quy mô chăn nuôi gia cầm với số lượng dưới 100con/hộ vẫn chiếm 56-59% tổng số đàn gia cầm cả nước).
Hạn chế lớn nhất của chăn nuôi quy mô nhỏ đó là khó đầu tư, áp dụng công nghệ mới, khó kiểm soát dịch bệnh, chi phí thức ăn và chi phí lao động cao, năng xuất chăn nuôi thấpdẫn tới giá thành sản phẩm cao. Điều này đã được nhiều chuyên gia kinh tế trên thế giới phân tích và chứng minh.
Nghiên cứu của 2 nhà kinh tế nổi tiếng Ấn Độ V.Balamurugan và M.Manoharan cho thấy quy mô chăn nuôi tỷ lệ thuận với tỷ lệ hoàn vốn, tỷ lệ nghịch với thời gian hoàn vốn và chi phí trực tiếp để sản xuất 1 đơn vị sản phẩm, nghĩa là quy mô chăn nuôi gà càng cao thì tỷ lệ hoàn vốn càng cao và và thời gian hoàn vốn càng ngắn, chi phí sản xuất càng thấp. Nghiên cứu cụ thể với 3 mô hình có quy mô 25, 35 và 70 ngàngà thịt/năm cho kết quả tỷ lệ hoàn vốn lưu động tương ứng: 33%;43% và 52%/năm; Thời gian hoàn vốn tương ứng là 3,72; 3,18 và 2,81 năm; Chi phí trực tiếp cho 1kg gà là 119; 107 và 98 cent/kg.
Hai là, để sản phẩm đến tay người tiêu dùng còn tồn tại quá nhiều khâu trung gian, tính liên kết trong các khâu của chuỗi giá trị sản phẩm gia cầm còn lỏng lẻo, mạnh ai người ấy làm, mỗi khâu, mỗi công đoạn đều phải có lãi nên đẩy giá sản phẩm lên cao.
Nguyên nhân của vấn đề này là do Việt Nam chưa có nhiều công ty lớn, có đủ tiềm lực và tầm nhìn để thành lập tập đoàn sản xuất tích hợp từ khâu con giống đến khâu sản xuất thức ăn, nuôi dưỡng, chế biến và bán sản phẩm.
Để giảm giá thành và đặc biệt làm chủ thị trường nội địa cũng như phục vụ xuất khẩu, từ những năm 2000 trở lại đây, nhiều nước trên thế giới đã có chủ trương thúc đẩy hình thành các tập đoàn lớn sản xuất theo hướng tích hợp (Integrated). Các tập đoàn sản xuất thức ăn đồng thời là tập đoàn chăn nuôi quy mô lớn, thậm chí một số tập đoàn kiêm luôn cả công tác chế biến sản phẩm và bán hàng.Kết quả sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn này ngày càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng và dần trở nên có khả năng định hướng, điều tiết thị trường khu vực và trên toàn thế giới.
Theo kết quả khảo sát của WATTAgNet (Mỹ, năm 2018,) Top 20 công ty chăn nuôi gia cầm lớn nhất trên thế giới (có số đầu gà mái từ 10 triệu con trở lên) thì có tới 17 công ty (chiếm tỷ lệ 85%) là công ty đồng thời sản xuất thức ăn, trong đó nổi bật là một số tập đoàn như CP (Thái Lan) có sản lượng thức ăn lớn nhất thế giới (27,6 triệu tấn), sản lượng gà chiếm thứ 4 thế giới (22 triệu con), New Hope Group (Trung Quốc) có sản lượng thức ăn cao thứ 2 thế giới (20 triệu tấn), sản lượng gà đúng thứ 9 thế giới (8,7 triệu con)…
Tại Việt Nam trong những năm gần đây xuất hiện một số công ty phát triển theo hướng tích hợp vừa nêu nên cũng đã đạt được một số kết quả tốt, điển hình là tập đoàn DABACO…
Ba là, phần lớn các trang trại quy mô vừa và nhỏ chưa kiểm soát được chất lượng các nguyên liệu đầu vào như con giống, thức ăn, thuốc thú y…nên nguyên liệu đầu vào không ổn định cả về chất lượng và giá cả gây ảnh hưởng đến năng xuất và giá thành chăn nuôi.
Thực tế những năm qua cho thấy chỉ những công ty lớn, đặc biệt là các công ty liên doanh với nước ngoài kiểm soát tốt các khâu liên quan đến nguyên liệu đầu vào. Phần lớn các trang trại quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt là các hộ chăn nuôi vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có cả lý do chủ quan và lý do khách quan đã gần như bất lực trước khó khăn này.
Một số giải pháp
– Ngoài an ninh lương thực thì xu thế trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển tìm cách đảm bảo cả an ninh thực phẩm, điều này rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Để góp phần đảm bảo an ninh thực phẩm, Nhà nước nên có chính sách thúc đẩy, hỗ trợ hình thành các công ty lớn, sản xuất tích hợp do Việt Nam làm chủ để có đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài khác đang có mặt trên thị trường Việt Nam như CP, Proconco, New Hope, Cagill…, mặt khác cần tiếp tục cải tiến, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn ưu đãi theo Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012. Mạnh dạn đặt mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 1-2 công ty sản xuất thức ăn và chăn nuôi lớn nằm trong top 20 trên thế giới.
– Phát triển các sản phẩm đặc thù để tăng tính cạnh tranh: Phần lớn các nước trên thế giới tập trung phát triển các giống gia cầm màu trắng, nuôi theo hướng công nghiệp nên có năng suất rất cao, giá thành rẻ nên để cạnh tranh với các nước là rất khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt.
Các giống gà lông màu nuôi bán chăn thả mặc dù có giá thành cao nhưng bù lại chất lượng thịt lại tốt hơn gà lông trắng, các nước chưa nuôi nhiều các giống gà này.Trong bối cảnh nhu cầu của người tiêu dùng trên thế giới đã có sự thay đổi mạnh trong thời gian gần đây.
Theo khảo sát mới nhất của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA, 2019) có tới 67% người tiêu dùng châu Âu và 59% người tiêu dùng Mỹ muốn chuyển từ việc sử dụng thịt gà trắng sang thịt gà lông màu nuôi bán chăn thả. Có thể coi đây là tín hiệu vui và là một lợi thế không nhỏ đối với các nhà chăn nuôi gia cầm Việt Nam.
– Tiếp tục nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của người dùng, nhằm phục vụ thị trường trong nước là chính. Với dân số trên 97 triệu người và khoảng 15 triệu khách du lịch nhu cầu tiêu thụ thịt, trứng thị trường nội địa là rất lớn. Thực tế cho thấy do các nhà sản xuất trong nước không đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng và giá cả nênchúng ta vẫn phải nhập khẩu thịt gà từ các nước (năm 2018 nhập 128 ngàn tấn, 9 tháng đầu năm 2019 nhập khoảng 79 ngàn tấn thịt gà).
Mặt khác, dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gia cầm sẽ tăng trong thời gian tới vì tiêu thụ bình quân đầu người cả thịt và trứng của Việt Nam hiện tại đều thấp hơn trung bình thế giới (Năm 2018 tiêu thụ thịt gà của Việt Nam khoảng 10 kg/người/năm, trứng gà: 89 quả/người/năm so với bình quân thế giới 23,8 kg và 156 quả/người/năm). Ngoài ra tăng cường tiếp cận, nâng cao chất lượng để phục vụ xuất khẩu sang các nước, đặc biệt là các nước có giá thành cao hơn Việt Nam như Nga, EU, Ấn Độ…
PHỤ LỤC
CHI PHÍ SẢN XUẤT 1KG THỊT GÀ CỦA VIỆT NAM
SO VỚI MỘT SỐ NƯƠC TRÊN THẾ GIỚI
(ĐVT: Cent; 1 Cent = 23.465:100 = 0,23465 VND)
Quốc gia |
Mục chi |
|||||||||
Thức ăn |
Lao động |
Nhà xưởng, điện nước |
Khác |
Tổng |
So sánh |
|||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|
|
|
1. Argentina |
64 |
71,0 |
6 |
6,7 |
10 |
11,1 |
10 |
11,1 |
90 |
71,5 |
2. Trung Quốc |
70 |
72,0 |
8 |
8,3 |
9 |
10,4 |
9 |
10,4 |
96 |
76,2 |
3. Braxin |
61 |
62,2 |
10 |
10,2 |
12 |
12,2 |
15 |
15,3 |
98 |
77,8 |
4. Mỹ |
73 |
68,8 |
12 |
11,3 |
12 |
11,3 |
11 |
10,4 |
106 |
84,1 |
5. Thái Lan |
75 |
64,4 |
9 |
7,8 |
10 |
8,7 |
12 |
10,3 |
116 |
92,1 |
6. Việt Nam |
87 |
69,5 |
10 |
7,8 |
14 |
11,1 |
15 |
11,9 |
126 |
100 |
7. Nga |
88 |
63,8 |
14 |
10,8 |
13 |
10,0 |
15 |
11,5 |
130 |
103,2 |
8. Ấn Độ |
94 |
71,0 |
12 |
9,1 |
12 |
9,1 |
14 |
10,6 |
132 |
104,7 |
9. EU |
82 |
61,9 |
15 |
11,2 |
15 |
11,2 |
21 |
15,6 |
134 |
106,3 |
GS.TS Nguyễn Duy Hoan
Giảng viên cao cấp Đại học Thái Nguyên
- xuất khẩu sản phẩm gia cầm li>
- Sản phẩm gia cầm Việt Nam li> ul>
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Tập đoàn Nhật Sojitz khai trương nhà máy chế biến thịt bò mát 10.000 tấn tại Tam Đảo
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất