Tác động của các dự án giảm nghèo trong việc phát triển chăn nuôi ở cộng đồng người Ê-đê ở Đắc Lắc - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 68.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Giang 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 68.000 - 75.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 70.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 68.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 75.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 74.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 74.000 - 78.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 75.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 77.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 78.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Long An 74.000 đ/kg
    •  
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 68.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 68.000 đ/kg
  • Tác động của các dự án giảm nghèo trong việc phát triển chăn nuôi ở cộng đồng người Ê-đê ở Đắc Lắc

    [Chăn nuôi Việt Nam] – Tác động của các dự án giảm nghèo trong việc phát triển chăn nuôi ở cộng đồng người Ê-đê ở Đắc Lắc.

     

    Chuyển từ chăn nuôi truyền thống sang chăn nuôi “dự án”

     

    Người Ê-đê ở tỉnh Đắc Lắc chăn nuôi nhiều gia súc, gia cầm như bò, gà, vịt, heo, dê… Theo truyền thống, gia súc và gia cầm được nuôi để làm vật hiến sinh, phục vụ những nghi lễ trong năm của gia đình và cộng đồng. Người Ê-đê nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu để phục vụ cho nghi lễ, ma chay, cưới xin. Theo quan niệm truyền thống, trong các nghi lễ và sinh hoạt cộng đồng, càng hiến sinh nhiều súc vật, càng vinh dự và khẳng định vai trò, vị trí xã hội của người làm hiến sinh.

     

    Chăn nuôi của người Ê-đê đang chuyển phần nào từ nuôi truyền thống sang sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường. Trong “Dự án giảm nghèo khu vực Tây Nguyên”, người Ê-đê đã tham gia vào nhiều nhóm chăn nuôi như dê, lợn và gà. Hiện nay, chăn nuôi của người Ê-đê tồn tại song song hai hình thức, vừa chăn nuôi theo truyền thống vừa chăn nuôi theo phương thức chuyển giao của dự án. Để phân biệt nguồn gốc các giống vật nuôi, người dân đặt tên là “heo Tây” và “heo Đê” (lợn của dự án và lợn giống địa phương); hay gà công nghiệp, gà Tam Hoàng và gà “tộc” hoặc“gà Đê” (gà của người Ê-đê).

     

    Hình thức chăn nuôi truyền thống của người Ê-đê rất đơn giản. Heo và gà đều được thả rông quanh nhà để tự kiếm ăn. Sau khoảng 12 tháng, trọng lượng của heo chỉ dao động từ 15-20kg. Những con heo nái đẻ nhiều thường được giữ lại để gây dựng đàn giống. Heo đực thường được người dân để dành cho các dip lễ, tết cuối năm. Giá thịt heo trung bình từ 120.000-150.000 đồng. Mỗi gia đình thường chỉ nuôi 2-3 con heo. Những gia đình có đất và chuồng rộng hơn nuôi từ 5-7 con heo. Số lượng gà nuôi của mỗi hộ chỉ dao động dưới 10 con. Một con gà bán ra ngoài thị trường có trọng lượng khoảng 1,5kg có giá 150.000-170.000 đồng.

     

    Người Ê-đê thường tận dụng thời gian làm cỏ ở ruộng hay trên rẫy để thu gom thức ăn cho vật nuôi. Bò thường được nuôi ít nhất 15 tháng, tùy theo điều kiện chăm sóc mới có thể bán ra thị trường. Một con bò khi bán ra thị trường có giá khoảng từ 10-17 triệu đồng, tùy theo khối lượng và chất lượng bò nuôi. Những con bò cái sinh đẻ tốt thường được giữ lại để gây dựng đàn. Số lượng bò cũng được xem là tiêu chuẩn để đánh giá điều kiện kinh tế của mỗi hộ gia đình, ví như gia đình già làng Ychon Pyă nuôi 5 con bò và được xếp vào diện gia đình khá giả. Dự án giảm nghèo khu vực Tây Nguyên hỗ trợ giống bò cho 1 nhóm gồm 11 hộ gia đình tại buôn Ko Đung B với số vốn 393.000.000 đồng từ khi dự án bắt đầu triển khai.

     

    Lựa chọn và thích ứng với chăn nuôi gà truyền thống

     

    Các nhóm chăn nuôi gà thuộc dự án giảm nghèo Tây Nguyên được hình thành vào tháng 9/2018 đến năm 2024 tại các buôn, mỗi hộ dân tộc Ê-đê được giao 200 con gà giống (gà Tam Hoàng) và được hỗ trợ vật tư làm 200m2 chuồng trại và 6 bao thức ăn công nghiệp để nuôi gà; người tham gia đối ứng bằng công lao động làm chuồng trại và chăm sóc gà.

     

    Số thức ăn được hỗ trợ chỉ đủ cho gà ăn trong khoảng 1 tháng đầu, sau đó người dân tự bỏ chi phí để mua thức ăn cho gà. Chị Hdĩ Hwing, tổ phó của nhóm chăn nuôi gà tại buôn Niêng 2, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc cho biết, cách thức chăn nuôi gà Tam Hoàng khác hoàn toàn so với giống gà địa phương. Gà Tam Hoàng phải được nuôi trong chuồng sạch sẽ, tiêm các loại vắc xin phòng bệnh và thức ăn phải là loại cám công nghiệp. Gà Tam Hoàng không có khả năng tự kiếm thức ăn tốt như giống gà địa phương.

     

    Hiện nay, gia đình chị Hdĩ Hwing không còn nuôi gà Tam Hoàng nữa. Chuồng gà trở thành nhà kho chứa các dụng cụ lao động. Cũng giống với nhận xét của chị Hdĩ Hwing, anh Ywing Hra cho biết: “…thì con gà đấy [Tam Hoàng] nuôi là cho ăn cám hóa học cho nhanh lớn, nếu cho ăn bình thường lâu lớn lắm, gà công nghiệp là lâu lớn… Gà công nghiệp nó không đi bới ăn giống như gà này đâu, nó không biết bới, mình cho thì nó ăn thôi chứ nó không biết ăn mối, ăn những thứ tự kiếm được”.

     

    Sau quá trình nuôi khoảng 5-6 tháng, gà Tam Hoàng có thể bán được với giá 50.000 đồng/kg. So với gà địa phương có giá khoảng 80.000-90.000 đồng, thì người dân chuộng nuôi gà địa phương hơn, dù lâu lớn nhưng dễ nuôi và được thị trường ưa thích hơn.

     

    Những khó khăn trong chăn nuôi heo

     

    Khi chúng tôi hỏi về cách thức chăm sóc heo thịt, chị Hblen Bya cũng cho biết người dân chưa biết cách chăm sóc giống heo này, vì nó hoàn toàn khác với giống heo bản địa mà họ đã nuôi từ nhiều năm nay. Chị Hblen Bya cho biết: “Loại heo móng cái này nó cũng ăn giống heo dân tộc hay sao ý, nó ăn rồi đi đi hái rau bỏ vô nó vẫn ăn không phải như là heo trắng đâu. Đa số người ta cũng ủng hộ heo móng cái này, tuy có một số hộ họ thích heo trắng, nhưng mà heo trắng hình như khó nuôi hơn, về cái thức ăn nó hơi khó”. Dù chăm sóc khó, nhưng giá heo khá thấp, dao động 45.000-50.000 đồng/kg. Sau hơn 3 tháng chăn nuôi với số lượng 2 con heo, mỗi hộ gia đình có thể thu được khoảng 8-9 triệu đồng, chưa trừ chi phí.

     

    Phát triển hướng chăn nuôi dê

     

    Ở xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lăk có nhóm nuôi dê của dự án Giảm nghèo Tây Nguyên được triển khai tại các buôn: Niêng 1, Ko Đung B, Ea Mthar 2. Mỗi nhóm từ 15-17 hộ gia đình được giao 2 con dê (cái hoặc đực) và 102m2 lưới B40 để làm chuồng trại. Người dân tham gia dự án nuôi dê bỏ chi phí về gỗ và công sức để làm chuồng trại cho dê. Sau khoảng 12 tháng, mỗi dê cái sẽ sinh sản khoảng 2 con dê con. Người tham gia dự án được hưởng lợi từ việc bán dê thịt trưởng thành hoặc dê con. Trong trường hợp dê con là dê đực người nuôi dê có thể hưởng lợi từ làm dịch vụ phối giống dê.

     

    Từ dê con 1-2 tháng, sau khi nuôi khoảng 12 tháng là có thể phối giống và sinh sản. Nếu nuôi dê để bán thịt thì sau 6 tháng trọng lượng dê tầm 20kg là có thể xuất chuồng. Giá thịt dê dao động 70.000-80.000 đồng/kg. Thức ăn cho dê khá đa dạng, từ các loại cỏ, đọt cây non, cho đến cám công nghiệp. Nhưng đa số người dân tận dụng các loại cây cỏ ngay trong vườn nhà hoặc ruộng, rẫy. Hiện nay, phần lớn người dân đi làm rẫy sử dụng xe máy để tiết kiệm thời gian và tranh thủ chuyên chở thức ăn cho dê và các vật nuôi khác.

     

    Nhìn chung, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, nuôi dê hiện nay có kết quả khá hơn so với nuôi gà và nuôi heo. Chỉ trong khoảng 12 tháng là người nuôi dê có thể gia tăng số dê trong đàn của hộ gia đình. Những hộ gia đình có dê cái nhiều hơn thì có ưu thế hơn trong việc thu lợi nhuận qua việc bán dê con hoặc tăng thêm số dê nuôi. Nuôi dê cũng dễ chăm sóc hơn so với nuôi gà và heo. Nguồn thức ăn của dê lại rẻ và có thể tận dụng các phụ phẩm nông sản hoặc hái lượm.

     

    Kết luận

     

    Chăn nuôi của người Ê-đê hiện nay có nhiều khác biệt so với trước đây, đặc biệt kể từ khi có sự hỗ trợ của dự án giảm nghèo Tây Nguyên. Phương thức chăn nuôi hiện nay là sự lồng ghép giữa vật nuôi theo kiểu truyền thống và mô hình chăn nuôi xây dựng từ dự án. Những mô hình chăn nuôi này góp phần tạo sinh kế bền vững cho nhiều hộ gia đình tham gia dự án, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, để dự án có hiệu quả hơn, một số khâu của dự án cần được cải tiến, rút kinh nghiệm, đặc biệt là việc chọn con giống phù hợp với điều địa phương. Các con giống địa phương có sức đề kháng và thích ứng với điều kiện môi trường tốt hơn những con giống nhập về.

     

    Tạ Thị Tâm – Viện Dân tộc học

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Văn Đầy
  • Cần con giống gà tre lai

  • Vũ Anh Tuấn
  • Gà nhà em khoẻ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.

    Sản phẩm doanh nghiệp