Tình hình nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 9 tháng đầu năm 2025 - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Tình hình nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 9 tháng đầu năm 2025

    Trong 9 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực như ngô, đậu tương và lúa mì có diễn biến trái chiều. Trong khi ngô và đậu tương ghi nhận mức tăng nhẹ về lượng và kim ngạch, nhờ nguồn cung dồi dào từ Nam Mỹ, thì lúa mì lại sụt giảm cả về sản lượng lẫn giá trị do nhu cầu chững lại và giá thế giới biến động.

     

    Nhập khẩu ngô: Có xu hướng tăng 

     

    Theo số liệu sơ bộ của Cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu ngô đạt gần 8,19 triệu tấn, trị giá hơn 2,06 tỷ USD, với giá bình quân 252,1 USD/tấn, tăng lần lượt 1,3% về lượng, 4,1% kim ngạch và 2,7% về giá so với cùng kỳ 2024.

     

    Riêng tháng 9/2025, Việt Nam nhập 1,45 triệu tấn ngô (338,4 triệu USD), tăng 13,3% về lượng và 7,4% về kim ngạch nhưng giá bình quân giảm 5,2% so với tháng trước. So với tháng 9/2024, các chỉ tiêu đều tăng trên 25%.

     

    Argentina tiếp tục là nguồn cung lớn nhất, chiếm gần 55% tổng lượng nhập khẩu, đạt 4,49 triệu tấn, trị giá 1,13 tỷ USD, giá trung bình 251,2 USD/tấn. So với cùng kỳ 2024, lượng giảm 2,6% nhưng kim ngạch tăng 1,6% nhờ giá tăng 4,3%. Trong tháng 9, Việt Nam nhập từ Argentina 776.270 tấn, trị giá 180,6 triệu USD, thấp hơn tháng 8 nhưng cao hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước.

     

    Thị trường Brazil đứng thứ hai với 2,09 triệu tấn, tương đương 510,8 triệu USD, giảm hơn 11% về lượng và 12,6% kim ngạch. Ngoài ra, Việt Nam còn nhập từ Lào (52.000 tấn), Thái Lan (3.400 tấn) và Campuchia (63.000 tấn), song đều giảm so với năm trước.

     

    Nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 9 tháng đầu năm 2025 có sự tăng nhẹ

     

    Đậu tương: Tăng mạnh về lượng, giảm nhẹ giá

     

    9 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu đậu tương đạt 1,95 triệu tấn, trị giá 904,9 triệu USD, giá bình quân 463,7 USD/tấn. So với cùng kỳ năm 2024, lượng nhập tăng 22,5%, kim ngạch tăng 9,6%, nhưng giá giảm 10,5%. Riêng tháng 9, nhập khẩu đạt 140.547 tấn, trị giá 67,3 triệu USD, giảm hơn 50% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 8, nhưng giá tăng nhẹ 0,6%.

     

    Brazil là nguồn cung chủ đạo, chiếm hơn 56% tổng lượng, với 1,11 triệu tấn, trị giá 518,5 triệu USD, giá trung bình 469 USD/tấn; lượng tăng 17,6% và kim ngạch tăng 10,4% so với cùng kỳ, nhưng giá giảm 6,1%. Tháng 9, lượng nhập từ Brazil giảm mạnh gần 70% so với tháng trước.

     

    Mỹ đứng thứ hai, đạt 667.200 tấn (301,4 triệu USD), tăng hơn 29% về lượng nhưng giá giảm 15,6%. Tiếp theo là Canada, với 142.000 tấn (67,9 triệu USD), tăng mạnh 45,4% về lượng, song giá bình quân giảm gần 20%.

     

    Lúa mì: Giảm cả về lượng và kim ngạch

     

    Trái ngược với ngô và đậu tương, nhập khẩu lúa mì trong 9 tháng 2025 đạt 4,19 triệu tấn, trị giá 1,12 tỷ USD, giá trung bình 267,3 USD/tấn – giảm 7,9% về lượng, 10,6% kim ngạch và 3% về giá so với cùng kỳ 2024.

     

    Tháng 9/2025, nhập khẩu chỉ đạt 373.330 tấn (98,75 triệu USD), giảm hơn 30% so với tháng trước và hơn 55% so với cùng kỳ năm ngoái.

     

    Australia vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm khoảng 25% tổng lượng nhập khẩu, với 1,06 triệu tấn, trị giá 289,2 triệu USD, tăng 18% về lượng nhưng giá giảm 11,4%. Tuy nhiên, riêng tháng 9, lượng nhập từ Australia giảm sâu gần 97% so với tháng 8.

     

    Đứng thứ hai là Brazil với 989.000 tấn (254,4 triệu USD), giảm 15,8% về lượng nhưng giá tăng 3,1%. Mỹ là nguồn cung thứ ba, đạt 589.500 tấn (162,6 triệu USD), tăng hơn 55% về lượng song giá giảm gần 14%.

     

    Tổng quan, 9 tháng năm 2025 ghi nhận xu hướng tăng nhẹ ở nhóm ngô và đậu tương nhờ nguồn cung ổn định từ Nam Mỹ, trong khi lúa mì giảm mạnh do nhu cầu chậm lại và giá thế giới biến động.

     

    Cẩm Anh (tổng hợp)

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Quang Ngọc
  • Cho em xin tài liệu ạ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.