Giun đũa lợn phân bố rất rộng rãi trên thế giới. Lợn đóng vai trò là vật chủ chính, tuy nhiên một số động vật khác cũng có thể bị nhiễm ở dạng ấu trùng như gà, bò và chúng đóng vai trò là vật chủ dự trữ. Ngoài ra, giun đũa lợn còn là một trong các tác nhân gây ra hội chứng ấu trùng di chuyển ở người (ascarid LMS). Người bị nhiễm là do nuốt phải trứng giun đũa lợn bị nhiễm vào thức ăn/nước uống hoặc do ăn phải thịt/phủ tạng của các vật chủ dự trữ có chứa ấu trùng.
Thí nghiệm thực nghiệm gây nhiễm giun đũa lợn trên gà và bê đã xác định được sự phân bố của ấu trùng và các biến đổi bệnh lý trên gan ở các động vật này. Ấu trùng giun đũa lợn có thể được tìm thấy từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 3 ở gan gà, và ngày thứ 5 ở gan bê. Đồng thời các nốt hoại tử màu trắng cũng được quan sát trên bề mặt của gan các động vật này.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá sự tạo thành các nốt hoại tử trên bề mặt gan, cũng như vị trí lấy mẫu thích hợp nhằm xác định ADN của ấu trùng giun đũa lợn ở 2 nhóm gà: gà được gây nhiễm một lần với trứng giun đũa lợn – giống mô hình gà bị nhiễm ngẫu nhiên, và gà được gây nhiễm nhiều lần – giống như mô hình gà bị nhiễm ngoài thực địa. Kết quả của nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng ở khía cạnh kiểm soát sát sinh nhằm ngăn ngừa nguy cơ người bị nhiễm ấu trùng giun đũa lợn từ thực phẩm.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu mẫu giun trưởng thành, phân lập trứng từ giun trưởng thành, nuôi trứng phát triển đến giai đoạn gây nhiễm (trứng chứa ấu tùng L3)
Phương pháp gây nhiễm giun đũa lợn trên gà:
– Nhóm A: gây nhiễm một lần duy nhất, với liều 2000 trứng/gà
– Nhóm B: gây nhiễm nhiều lần (2 lần/tuần trong vòng 6 tuần), với liều 500 trứng/gà
Sau 3, 7, 14 và 28 ngày kể từ lần gây nhiễm cuối cùng, gà được mổ khám, kiểm tra, đếm các nốt hoại tử trên bề mặt gan. Đồng thời lấy 50 mg gan có chứa nốt hoại tử hoặc 500 mg gan trong trường hợp không có nốt hoại tử để kiểm tra sự có mặt của ấu trùng giun đũa lợn.
- Phương pháp real-time PCR để xác định sự có mặt của suum trong các loại mẫu khác nhau.
- Phương pháp tiêu cơ xác định ấu trùng giun đũa lợn ở gan gà.
- Phương pháp bệnh lý xác định ấu trùng trong các nốt hoại tử
Kết quả chính
Nhóm A: 78.6 % ở các mẫu có chứa nốt hoại tử và 31.3 % mẫu còn lại đã xác định được ADN của giun đũa lợn. Đồng thời kết quả chỉ ra rằng hiệu quả xác định ADN của giun đũa lợn ở mẫu có trọng lượng 50 mg cao hơn hẳn so với mẫu có trọng lượng 500 mg (P <0.05).
Nhóm B: tỷ lệ xác định ADN của giun đũa lợn là 78.9% ở các mẫu có chứa các nốt hoại tử và 100 % ở các mẫu còn lại. Đặc biệt tỷ lệ xác định A. suum ADN vẫn rất cao vào ngày 28. Hiệu quả xác định tương đương nhau ở hai loại mẫu.
Ngoài ra, bằng phương pháp tiêu cơ, ấu trùng chỉ xác định được vào ngày thứ 7 và không tìm thấy ấu trùng trong các nốt hoại tử bằng phương pháp bệnh lý học.
Kết luận
Kết quả của nghiên cứu đã chứng minh ưu điểm vượt trội của kỹ thuật real-time PCR so với phương pháp truyền thống (phương pháp tiêu cơ và phương pháp bệnh lý học).
Các nốt hoại tử màu trắng trên bề mặt gan là một dấu hiệu lâm sàng quan trọng chỉ ra sự di hành của ấu trùng giun đũa lợn đến gan gà. Đồng thời đây cũng là vị trí đích để lấy mẫu nhằm xác định định sự có mặt của ADN của giun đũa lợn.
Kết quả của nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng ở khía cạnh kiểm soát sát sinh nhằm ngăn ngừa nguy cơ người bị nhiễm ấu trùng giun đũa lợn từ thực phẩm.
Bảng 1. Xác định AND của A. suum ở gan gà gây bệnh thực nghiệm

Nguyễn Thị Hoàng Yếna,b, Nariaki Nonakaa,e, Haruhiko Maruyama,d, Ayako Yoshidaa,c,*
aPhòng thí nghiệm Ký sinh trùng, Bộ môn Thú y, Khoa Nông nghiệp, trường Đại học Miyazaki, Nhật Bản
bBộ môn Ký sinh trùng, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội
c Trung tâm kiểm soát dịch bệnh động vật (Centre for Animal Disease Control – CADIC), Trường Đại học Miyazaki, Nhật Bản
d Phòng thí nghiệm Ký sinh trùng, Bộ môn Bệnh truyền nhiễm, khoa Y, trường Đại học Miyazaki, Nhật Bản
e Phòng thí nghiệm ký sinh trùng, Bộ môn kiểm soát dịch bệnh, Khoa sau đại học, trường Đại học Hokkaido, Nhật Bản
Xem nội dung chi tiết tại: https://vnua.edu.vn/tin-tuc-su-kien/nghien-cuu-khoa-hoc/ung-dung-ky-thuat-real-time-pcr-trong-viec-xac-dinh-ascaris-suum-o-gan-ga-gay-benh-thuc-nghiem-52492
- Ứng dụng công nghệ mới trong công tác giống lợn: Xu thế và giải pháp
- 7 axit amin “vàng” trong thịt lợn nạc giúp tăng cơ bắp hiệu quả
- Tối ưu hiệu quả khô dầu đậu nành trong thức ăn chăn nuôi
- Đồng Nai: Ứng dụng tự động hóa trong nuôi vịt giúp tăng năng suất
- Tác động của độc tố nấm mốc trong thức ăn lên hệ miễn dịch gà: Cơ chế, biểu hiện và ảnh hưởng đến đáp ứng vaccine
- 7 lợi ích của việc sử dụng enzyme protease đối với gia cầm
- Ruồi và khí amoniac: Những tác động dây chuyền nguy hiểm trong chăn nuôi gia cầm
- Giải pháp bền vững kiểm soát tiêu chảy sau cai sữa ở heo con
- Đánh giá hiệu quả của Nextide: Dòng đạm chức năng mới trong dinh dưỡng dành cho heo
- Chiến lược dinh dưỡng để chống còi cọc ở heo con
Tin mới nhất
T6,05/12/2025
- Chuyên gia Châu Âu hoàn thành chương trình xúc tiến thức ăn chăn nuôi sấy khô tại Việt Nam
- Giá heo hơi hôm nay 5-12: Miền Bắc vượt ngưỡng 60.000 đồng/kg
- Thiếu hụt thú y cơ sở, người chăn nuôi thêm nỗi lo
- Nhiều dự án chăn nuôi lớn ở Tây Ninh bị ‘nghẽn
- Tiêu hủy hơn 1,2 triệu con heo bệnh trong 11 tháng
- Công ty TNHH Dinh Dưỡng Á Châu (VN) – ANT và Công ty TNHH MTV Trọng Khôi ký kết hợp tác, mở rộng chuỗi giá trị chăn nuôi bền vững
- Nhập khẩu thịt vượt 800.000 tấn, giá lợn hơi trong nước lao dốc mạnh
- Chống dịch tả lợn châu Phi đi đôi với công tác tái đàn
- Greenfeed tăng trưởng vượt bậc, đẩy mạnh hoàn thiện mô hình nông nghiệp bền vững
- Ứng dụng công nghệ mới trong công tác giống lợn: Xu thế và giải pháp
- AChaupharm: Nấm phổi gia cầm, hiểm họa thầm lặng khi giao mùa
- Chuyên gia bàn giải pháp sử dụng kháng sinh có kiểm soát trong chăn nuôi
- Ngành sữa Việt Nam: Cơ hội “bứt phá” từ nội lực
- Dịch tả heo châu Phi: Hiện trạng và giải pháp kiểm soát hiệu quả (Phần 1)
- Bộ NN&MT mở đợt ‘truy quét’ việc lạm dụng chất kích tăng trưởng, tăng trọng
- Cargill rút khỏi ngành thức ăn thủy sản tại Việt Nam, đóng cửa nhà máy tại Đồng Tháp và Long An
- Chăn nuôi dê bền vững theo chuỗi giá trị: Chủ nhà hàng là mắt xích quan trọng
- Da khỏe, lông đẹp: Chiến lược dinh dưỡng hiệu quả cho heo con sau cai sữa
- Lo ngại bệnh than, Campuchia ngừng nhập một số sản phẩm từ Thái Lan
- Cạn tiền, một công ty tại Nam Phi phải tiêu hủy hơn 350.000 con gà






















Bình luận mới nhất