[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Ở Úc, các trang trại bò sữa chủ yếu nằm ở bang Victoria và Tasmania. Ở những khu vực này, hệ thống chăn nuôi chủ yếu dựa trên đồng cỏ với sự đóng góp chủ yếu của cỏ lúa mạch đen lâu năm.
Thật vậy, trong những năm qua, hàm lượng cỏ ba lá của đồng cỏ đã giảm do sự phụ thuộc quá mức vào cỏ lúa mạch đen lâu năm. Chất lượng của đồng cỏ bị giảm và đã được bù đắp bằng các chất bổ sung vào thức ăn trong khẩu phần bò sữa (20-30% lượng vật chất khô (DM) ăn vào hàng ngày). Mức độ đậm đặc của thức ăn phụ thuộc vào chất lượng đồng cỏ chăn thả, giá sữa theo mùa, mục tiêu tổng chất khô trong sữa, giá ngũ cốc và các nguyên liệu protein khác. Mùa hè và mùa thu đưa đến một cơ hội tăng lợi nhuận của các trang trại do giá bán dựa vào vật chất khô trong sữa rất hấp dẫn. Tuy nhiên, cả năng suất sữa và chất lượng các thành phần sữa, đặc biệt là năng suất protein sữa có thể bị giảm do sự suy giảm chất lượng đồng cỏ trong cả mùa hè và mùa thu. Các chiến lược cải thiện về dinh dưỡng khác nhau được áp dụng để giảm thiểu sự sụt giảm về hiệu suất. Cân bằng axit amin là một cách tiếp cận hiệu quả để giảm thiểu tác động tiêu cực đến hiệu suất sản xuất. Do hàm lượng methionine chuyển hóa của cỏ và các nguyên liệu thô khác thường được sử dụng trong khẩu phần của bò sữa là rất thấp, methionine được coi là axit amin giới hạn đầu tiên trong hầu hết các khẩu phần của bò sữa. Sử dụng methionine dạng bọc thoát qua dạ cỏ cung cấp cơ hội duy nhất để đáp ứng sự thiếu hụt của methionine và cải thiện được hiệu quả sử dụng nitơ trong đàn bò sữa đang cho sữa. Do đó, hai thử nghiệm thương mại đã được tiến hành để kiểm tra tác dụng của methionine được bọc bởi ethyl-cellulose thoát qua dạ cỏ (Mepron®, Evonik Operations GmbH) đối với hàm lượng protein sữa, chất béo và chất khô không béo (SNF) trong mùa hè và mùa thu ở Úc.
Sử dụng Mepron® trong mùa hè và mùa thu
Hai thử nghiệm đã được tiến hành trong mùa hè và mùa thu tại hai trang trại bò sữa trên đồng cỏ ở Victoria, Úc để đánh giá tác động của Mepron® đối với năng suất và chất lượng sữa. Thử nghiệm 1 được tiến hành trên một trang trại với 250 bò sữa trong khi thử nghiệm 2 được tiến hành tại một trang trại khác với 675 bò sữa. Mepron® đã được thêm vào thức ăn tinh của bò sữa và được cung cấp bởi CopRice để đảm bảo liều hàng ngày là 15 g Mepron® cho mỗi con bò. Lượng thức ăn tinh với Mepron® hàng ngày ở mức 6 kg/con bò sữa đang cho sữa, được chia ra trong hai bữa ăn vào buổi sáng và buổi chiều trong mùa hè (tháng 12 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020) và mùa thu (tháng 3 đến tháng 5 năm 2020). Dữ liệu năng xuất sữa và chất khô trong sữa của sáu tháng nêu trên được so sánh với dữ liệu của mùa hè năm trước (tháng 12 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019) và mùa thu năm trước (tháng 3 đến tháng 5 năm 2019) tại cùng một trang trại bò sữa.
Giai đoạn đối chứng |
Mùa hè: 12/2018 – 02/2019 Mùa thu: 03/2019 – 052019 |
Thức ăn không có Mepron® |
Giai đoạn Mepron® |
Mùa hè: 12/2019 – 02/2020 Mùa thu: 03/2020 – 05/2020 |
Thức ăn với Mepron® |
Tác dụng của việc bổ sung Mepron® đối với hiệu suất sản xuất
Bổ sung Mepron® vào trong thức ăn của bò đã cải thiện hiệu quả kinh tế không chỉ trong việc tăng sản lượng sữa mà còn cải thiện năng suất chất khô trong sữa ở cả mùa hè và mùa thu (Hình 1, Bảng 1 và 2).
Hình 1: Năng suất sữa bình quân của các trang trại bò sữa trong thời gian đối chứng (12/2018 – 5/2019) và thời gian bổ sung Mepron® (tháng 12/2019 – 5/2020) trong thử nghiệm 1 và 2. Các cột cuối cùng cho mỗi thử nghiệm đại diện cho năng suất sữa trung bình (Ave) trong suốt nghiên cứu.
Năng suất sữa trung bình hàng ngày được cải thiện 2,9 kg/bò trong thử nghiệm 1 và 1,5 kg/bò trong thử nghiệm 2 ở giai đoạn bổ sung Mepron® so với giai đoạn đối chứng.
Bảng 1 cho thấy sự cải thiện protein sữa, chất béo sữa và SNF với việc bổ sung Mepron® trong thử nghiệm 1 trong những tháng mùa hè và mùa thu, ngoại trừ tháng 3 không có sự khác biệt về protein sữa và SNF. Protein sữa trung bình là 3,21% trong giai đoạn đối chứng và là 3,45% trong giai đoạn bổ sung Mepron®. Hàm lượng chất béo sữa trung bình trong giai đoạn bổ sung Mepron® cao hơn 0,25% so với giai đoạn đối chứng. Hàm lượng SNF trong sữa giao động từ 8,55-9,08% với hàm lượng trung bình là 8,85% trong giai đoạn đối chứng trong khi SNF là 8,94-9,28% với hàm lượng trung bình là 9,14% trong giai đoạn bổ sung Mepron®.
Bảng 1: Protein sữa trung bình, chất béo và % chất khô không béo của trang trại bò sữa trong giai đoạn đối chứng (tháng 12 năm 2018 – tháng 5 năm 2019) và giai đoạn bổ sung Mepron® (tháng 12 năm 2019 – tháng 5 năm 2020) trong thử nghiệm 1
Thời gian |
Protein sữa % |
Chất béo % |
Khô không béo % |
|||
Đối chứng |
Mepron® |
Đối chứng |
Mepron® |
Đối chứng |
Mepron® |
|
12/2018 |
3.00 |
3.41 |
4.18 |
4.34 |
8.70 |
9.15 |
01/2019 |
2.99 |
3.44 |
4.07 |
4.55 |
8.55 |
9.14 |
02/2019 |
3.11 |
3.44 |
4.13 |
4.54 |
8.73 |
9.18 |
03/2019 |
3.35 |
3.33 |
4.32 |
4.56 |
8.96 |
8.94 |
04/2019 |
3.41 |
3.50 |
4.52 |
4.69 |
9.05 |
9.13 |
05/2019 |
3.40 |
3.59 |
4.27 |
4.33 |
9.08 |
9.28 |
Trung bình |
3.21 |
3.45 |
4.25 |
4.50 |
8.85 |
9.14 |
Cải thiện % |
+7.5 |
+6.0 |
+3.3 |
Bảng 2 cho thấy việc sử dụng Mepron® trong thức ăn tinh đậm đặc trong thử nghiệm 2 cũng cải thiện protein sữa, chất béo và SNF trong cả những tháng mùa hè và mùa thu. Hàm lượng protein sữa dao động từ 2,95-3,52% ở giai đoạn đối chứng trong khi ở giai đoạn bổ sung Mepron® là 3,41-3,66%. Hàm lượng chất béo sữa trung bình tăng từ 4,23 lên 4,55% khi bổ sung Mepron®. Protein sữa, chất béo và SNF trung bình tăng lần lượt 7,0; 7,5 và 3,6%, với việc bổ sung Mepron® trong thức ăn tinh đậm đặc cho bò.
Bảng 2: Protein sữa trung bình, chất béo và % chất khô không béo của trang trại bò sữa trong giai đoạn đối chứng (tháng 12 năm 2018 – tháng 5 năm 2019) và giai đoạn bổ sung Mepron® (tháng 12 năm 2019 – tháng 5 năm 2020) trong thử nghiệm 2
Thời gian |
Protein sữa % |
Chất béo % |
Khô không béo % |
|||
Đối chứng |
Mepron® |
Đối chứng |
Mepron® |
Đối chứng |
Mepron® |
|
12/2018 |
2.95 |
3.37 |
4.13 |
4.33 |
8.64 |
9.09 |
01/2019 |
2.95 |
3.35 |
3.94 |
4.38 |
8.47 |
9.08 |
02/2019 |
3.18 |
3.37 |
4.12 |
4.42 |
8.78 |
9.09 |
03/2019 |
3.32 |
3.49 |
4.41 |
4.77 |
8.92 |
9.14 |
04/2019 |
3.52 |
3.57 |
4.52 |
4.65 |
9.13 |
9.23 |
05/2019 |
3.52 |
3.66 |
4.27 |
4.75 |
9.17 |
9.38 |
Trung bình |
3.24 |
3.47 |
4.23 |
4.55 |
8.85 |
9.17 |
Cải thiện % |
+7.0 |
+7.5 |
+3.6 |
Kết luận
Dựa trên kết quả của hai thử nghiệm thương mại này, có thể kết luận rằng sử dụng Mepron® mang đến hiệu quả sử dụng thức ăn của bò sữa không chỉ để giảm thiểu hoặc loại bỏ việc mất năng suất mà còn cải thiện năng suất sữa và tổng chất khô sữa trong đàn bò được chăn thả trên đồng cỏ vào mùa hè và mùa thu. Bổ sung Mepron® cải thiện năng suất sữa trung bình hàng ngày (1,5-2,9 kg/bò), protein sữa (7 đến 7,5%), chất béo sữa (6 đến 7,5%) và SNF (3,3 đến 3,6%) so với nhóm đối chứng trong cả hai thử nghiệm.
Mubarak Ali1,*, Shyamal Das2, Jessie Guyader3 and Claudia Parys3
1Nutrition & Care, Evonik (SEA) Pte Ltd, Singapore
2CopRice, Finlay Road, Tongala, Victoria 3621, Australia
3Evonik Operations, GmbH, Germany
- bệnh chướng hơi dạ cỏ li>
- chăn bò sữa li> ul>
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
- Những lợi ích thực tế của bã bia trong thức ăn cho bò sữa
- Một sức khỏe – Cách tiếp cận toàn diện giúp cải thiện an toàn thực phẩm
- Thị trường nguyên liệu thức ăn cho thú cưng: Đa dạng và chất lượng
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất