Chi phí
Kháng sinh (và các chất kháng khuẩn khác, ở đây tất cả đều được gọi chung là kháng sinh) rất rẻ. Vì giá rẻ nên chúng trở nên phổ biến, nhưng kể từ khi không được phép sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, bất kỳ sự lựa chọn thay thế nào cũng rất đắt đỏ. Trên thực tế, giải pháp thay thế càng hiệu quả thì sẽ càng đắt tiền, cho đến khi các sản phẩm tương tự được sản xuất để cạnh tranh và bán trên thị trường. Hiện nay, các sản phẩm đơn lẻ hay hỗn hợp các chất phụ gia vẫn chưa chứng minh được hiệu quả tương tự như kháng sinh, do đó các giải pháp thay thế vẫn sẽ khá đắt trong tương lai gần.
Vì vậy, các nhà sản xuất và người dùng khẩu phần không kháng sinh phải mua và bán những khẩu phần này với giá cao hơn so với giá trước đó. Ở nơi thị trường vẫn cho phép sử dụng kháng sinh, khẩu phần không kháng sinh có thể được bán ở mức thấp hơn để kiến tạo một thị trường tiềm năng. Trong trường hợp khác, chẳng hạn như các nước EU, khẩu phần không kháng sinh của heo con được giữ ở mức vừa phải do sự cạnh tranh khốc liệt, việc miễn cưỡng mua thức ăn đắt tiền cho heo con, và sự ưa chuộng khẩu phần ít phức tạp do khủng hoảng kinh tế lan rộng. Tuy nhiên, chất lượng cũng bị ảnh hưởng khi khẩu phần được cung cấp với giá thấp.
Hình 1. Tầm quan trọng của các yếu tố khi sử dụng khẩu phần không chứa kháng sinh
Khi nhìn vào giao diện chính của bất kỳ chương trình tổ hợp công thức thức ăn nào, các nhà dinh dưỡng luôn chú ý đến ba yếu tố: chi phí, nguyên liệu và chất dinh dưỡng. Chi phí thường quan trọng hơn nếu thức ăn dùng để bán, hoặc khi tái thiết lập để đưa chi phí xuống ở mức ‘hợp lý’ hơn. Như vậy, ba yếu tố này sẽ được giải quyết theo thứ tự sau (Bảng 1).
Bảng 1. Các yếu tố chính trong khẩu phần không kháng sinh cho heo con
Chi phí | Nguyên liệu | Chất dinh dưỡng |
Thức ăn đắt tiền | Ngũ cốc, whey, đậu nành | Protein |
Giảm lợi nhuận | Xơ chức năng | Xơ |
Giá so với chất lượng | Globulin miễn dịch | Natri |
Khẩu phần ăn không chứa kháng sinh tuy đắt tiền nhưng chất lượng cao giúp giảm thời gian của chu kỳ chăn nuôi. Điều này tốt hơn so với việc sử dụng khẩu phần ít tốn kém nhưng kéo dài thời gian. Mặc dù thức ăn giá thấp phù hợp trong giai đoạn kết thúc, nhưng vẫn sẽ tốt hơn nếu chúng ta làm tốt ngay trong giai đoạn đầu tiên, đặc biệt là giai đoạn sau cai sữa. Vì vậy, tốt nhất nên cho ăn ít mà tốt còn hơn là cung cấp thức ăn ‘kém chất lượng’.
Nguyên liệu
Đây là yếu tố cần được chú ý nhất, việc tiết kiệm chi phí thường được xếp sau chất lượng và/ hoặc số lượng nguyên liệu. Giả sử không thay đổi chất lượng nguyên liệu và vẫn giữ ở mức cao trong thức ăn của heo con, hãy thảo luận về những nguyên liệu nên được sử dụng khi thức ăn không còn chứa kháng sinh kích thích tăng trưởng.
Đầu tiên, ngũ cốc phải là một hỗn hợp cung cấp đủ năng lượng và xơ chức năng, nhưng không được có quá nhiều yếu tố kháng dinh dưỡng. Tương tự, hỗn hợp ngô (hoặc lúa mì chất lượng tốt) với lúa mạch cũng hoạt động rất hiệu quả. Thêm vào hỗn hợp này yến mạch, đặc biệt là tấm yến mạch đã được chứng minh là có tác dụng hỗ trợ cân bằng hệ vi sinh đường ruột nhờ giảm thời gian tiêu hóa và tăng hàm lượng xơ chức năng giúp tăng vi khuẩn có lợi. Trong một số trường hợp, việc bổ sung carbohydrase ở mức thích hợp sẽ mang lại lợi ích cho khẩu phần ăn.
Thứ hai, các sản phẩm từ sữa cần phải được đánh giá lại. Lactose có tính nhuận tràng tự nhiên và điều này cũng đúng đối với sucrose. Như vậy, hàm lượng đường đơn phải được giảm xuống, nhưng điều này sẽ làm giảm lượng ăn vào – cần sử dụng đến các phương thức hỗ trợ để đưa lượng ăn trở lại mức bình thường. Trong hầu hết các khẩu phần ở EU, đặc biệt là ở Bắc Âu và Đông Âu, khẩu phần ăn giai đoạn 1 sau cai sữa chứa khoảng 10% hàm lượng lactose và không vượt quá 5% trong khẩu phần giai đoạn 2, đây được coi là những khẩu phần có hàm lượng lactose cao.
Thứ ba, bắt buộc phải có thành phần xơ chức năng. Chất xơ này có nguồn gốc từ các nguyên liệu như bã rau diếp xoăn, bột carob, bã củ cải đường, bã táo ép, vv. Sự cân bằng và hàm lượng chính xác của từng nguyên liệu là bí mật thương mại giữa các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi, sở hữu được chúng dĩ nhiên là điều tốt nhất.
Thứ tư, nguồn protein cần phải tinh khiết trong khẩu phần không kháng sinh. Có nghĩa là chúng phải dễ tiêu hóa và không có nhiều yếu tố kháng dinh dưỡng. Không nên dùng khô dầu đậu nành, và một số nguồn protein tương tự như khô dầu canola, bã hạt cải dầu, khô dầu hướng dương, đậu Hà Lan, đậu faba, vv. Protein đậu nành vẫn có thể được sử dụng dưới dạng đậu nành nguyên dầu ép đùn hoặc protein đậu nành đậm đặc (concentrated soy protein). Hiện nay bột cá bị hạn chế về mặt giá vì bột cá chất lượng tốt có giá thành vượt ngoài tầm của hầu hết các công thức thức ăn, trong khi đó bột cá rẻ không phù hợp với thức ăn chất lượng cao của heo con. Còn nhiều nguồn protein khác có mặt trên thị trường, tương tự như đạm đậu nành đậm đặc – được coi là nguồn protein tham khảo cho thức ăn của heo con.
Thứ năm, tăng globulin miễn dịch. Đây là thành phần tốt nhất được sử dụng trong khẩu phần không kháng sinh, có trong huyết tương động vật hoặc các kháng thể có nguồn gốc từ trứng. Sản phẩm globulin miễn dịch có nguồn gốc từ trứng tốt hơn, vì đây là sản phẩm đặc hiệu được thiết kế để chống lại các mầm bệnh ở heo con, trong khi globulin từ huyết tương động vật phụ thuộc vào nguồn gốc tác nhân gây bệnh mà vật nuôi tiếp xúc. Không cần phải nói, chi phí sử dụng huyết tương động vật rất cao vừa để đáp ứng yêu cầu về chất lượng với hàm lượng thích hợp, vừa để tạo ra thức ăn thành phẩm đáp ứng kỳ vọng của thị trường.
Chất dinh dưỡng
Vi khuẩn, đặc biệt là các vi khuẩn gây bệnh cần protein để phát triển mạnh. Do đó, không chỉ tất cả các nguồn protein có trong thức ăn cần có tỷ lệ tiêu hóa cao nhất có thể, mà tổng protein (thô) trong thức ăn phải được giới hạn trong khoảng 18-19% hoặc thậm chí ít hơn, trong tất cả các khẩu phần từ khẩu phần ăn dặm cho đến khẩu phần giai đoạn trọng lượng 20-30 kg. Để đạt được mục tiêu này cần sử dụng các axit amin tổng hợp, nhưng chú ý không được sử dụng quá 0.5% L-Lysine HCL. Chất xơ, như đã đề cập bên trên cũng cần phải được tăng lên. Trước đây, 2% xơ thô được xem là lý tưởng cho thức ăn heo con, nhưng trong khẩu phần không kháng sinh thì hoàn toàn ngược lại.
Giả sử khẩu phần ăn có chứa hỗn hợp xơ chức năng, thì nên có khoảng 3% xơ thô, tăng thêm một chút tùy theo độ tuổi của heo, nhưng không bao giờ được vượt quá 4% (phụ thuộc vào độ tuổi, chất lượng thức ăn với việc cân đối chi phí).
Hàm lượng natri nên được giảm xuống còn khoảng 0.3%, giả sử muối cũng có tính nhuận tràng, tránh việc sử dụng vượt mức whey, bột cá, và huyết tương động vật cũng mang lại nhiều lợi ích. Ngược lại, nếu không thể giảm hàm lượng natri, có thể sử dụng bất kỳ nguyên liệu nào có khả năng hấp thụ nước cao.
Năng lượng được đề cập cuối cùng, vì sau khi giải quyết hết các vấn đề ở trên, khẩu phần thức ăn sẽ tự động chứa ít năng lượng, trừ khi khẩu phần chứa hàm lượng chất béo/dầu cao. Như vậy, 10 MJ/kg năng lượng thuần được coi là đủ cho khẩu phần không kháng sinh.
Các vấn đề phát sinh cần xem xét
Rất khó để kết luận rằng tất cả các yếu tố cần thiết để làm nên một khẩu phần ăn không kháng sinh lý tưởng đều được đề cập trong bài viết này. Thực tế, đã có rất nhiều sách viết về đề tài này, các hội thảo và hội nghị trên toàn thế giới được tổ chức nhằm tìm ra các công thức thức ăn tốt nhất khi không có kháng sinh. Ngoài ra còn có tài liệu khoa học với đầy đủ các dự án nghiên cứu về chủ đề này. Tuy nhiên, các lưu ý ở trên có thể được dùng như tài liệu hướng dẫn cho việc thiết kế hoặc thương mại thức ăn không kháng sinh. Thông thường, mỗi chuyên gia dinh dưỡng đều có phương châm của riêng mình trong việc lựa chọn khẩu phần phù hợp với nhu cầu.
- thức ăn chăn nuôi li>
- thay thế kháng sinh li>
- kháng sinh trong chăn nuôi li>
- thức ăn không kháng sinh li> ul>
- Hình ảnh siêu quang phổ có thể phát hiện độc tố nấm mốc trong thức ăn gia cầm
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nghiên cứu axit amin chỉ ra tiềm năng cho chế độ ăn ít protein hơn
- Bổ sung sắt uống để phòng ngừa thiếu máu ở heo con sơ sinh
- Rối loạn chất lượng thịt ức ở gà thịt hiện đại
- Vỏ yến mạch đang ngày càng phổ biến trong dinh dưỡng gia cầm
- 6 thành phần giàu chất xơ và lợi ích của chúng đối với người chăn nuôi gia cầm
- Lựa chọn chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gà thịt giống
- 6 điều có thể bạn chưa biết giúp thúc đẩy quá trình tổng hợp protein (tăng cơ bắp) ở heo
- Đất sét trao đổi ion trong thức ăn có thể thể hiện đặc tính kháng sinh
Tin mới nhất
T2,25/11/2024
- Trao quyết định bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Hình ảnh siêu quang phổ có thể phát hiện độc tố nấm mốc trong thức ăn gia cầm
- CP Foods thu gần 68.000 tỷ đồng tại Việt Nam
- Lào Cai: Đánh giá hiệu quả mô hình nuôi dúi thương phẩm tại xã Liên Minh (thị xã Sa Pa)
- Tập trung phòng bệnh dịch tả châu Phi trên đàn lợn
- Bà Rịa – Vũng Tàu: Kiểm tra tỷ lệ bảo hộ sau tiêm phòng gia súc, gia cầm
- Bí kíp nuôi công an toàn dịch bệnh tại các khu du lịch sinh thái
- Sản lượng lợn của Anh tháng 10/2024 tăng
- Nông dân sản xuất giỏi từ mô hình chăn nuôi dê
- Giới khoa học lo ngại ca H5N1 có dấu hiệu thích nghi với người
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất