Cuộc xung đột tại Ukraine chỉ là một trong số những mối đe dọa chồng chất đang đè nặng lên tình hình an ninh lương thực của các quốc gia đông dân nhất thế giới như Trung Quốc hay Ấn Độ.
Thu hoạch lúa mì tại vùng Stavropol, miền nam nước Nga. Ảnh: AFP/TTXVN
Thế giới đã ghi nhận thêm từ 11 đến 19 triệu người lâm vào cảnh “đói kém kinh niên”. Điều đó khiến người ta đặt câu hỏi rằng trong số ấy có bao nhiêu người đến từ châu Á? Trong bối cảnh lúa mỳ đang trở nên khan hiếm, gạo có nguy cơ trở thành một mặt hàng xa xỉ, ngoài tầm với của một phần dân số hay không?
Để trả lời các câu hỏi này, đài RFI đã phỏng vấn chuyên gia Sébastien Abis, Giám đốc Club Demeter, một tổ chức quy tụ nhiều trường đại học và viện nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến thực phẩm. Club Demeter cũng là đơn vị đặc trách hồ sơ lương thực thực phẩm thuộc Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược IRIS của Pháp
Theo chuyên gia Sébastien Abis, châu Á cũng đang phải đối mặt với hiện tượng vật giá leo thang. Giá nông phẩm, lương thực tăng “đến chóng mặt”.
Tháng 2/2022, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) báo động chỉ giá thực phẩm đã tăng 30% so với cùng thời kỳ một năm trước đó. Riêng giá lúa mỳ, một trong ba loại ngũ cốc được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới, đã tăng 56% so với tháng 2/2021. Hơn 100 triệu dân cần được viện trợ lương thực. Trong những tháng tới đây, nạn đói có nguy cơ lan rộng đến hàng chục triệu người trên hành tinh.
Xung đột ở Ukraine chỉ là “một phần của vấn đề”
Điều trớ trêu là vào lúc một phần nhân loại bị thiếu lương thực, dưới tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraine, hàng chục triệu tấn ngũ cốc ở một trong hai vựa ngũ cốc của thế giới là Ukraine đã bị kẹt lại ở các nhà kho, hải cảng của nước này. Từ nhiều tuần qua, đàm phán khai thông Biển Đen vẫn bế tắc.
Nhà nghiên cứu Sébastien Abis trước hết nhấn mạnh yếu tố căng thẳng tại Ukraine chỉ là một phần của vấn đề: “Tình trạng hiện tại là do nhiều cuộc khủng hoảng diễn ra cùng một lúc. Trước hết là khủng hoảng về phía các nhà sản xuất do biến đổi khí hậu, thiên tai và càng lúc tình hình càng bấp bênh. Thứ hai là những ách tách ở các khâu vận chuyển. Thứ ba, khủng hoảng COVID-19 khiến các nhà sản xuất gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng nhân công. Thứ tư, yếu tố địa chính trị liên quan trực tiếp đến hai nguồn sản xuất lớn, hai nhà xuất khẩu của thế giới là Nga và Ukraine”.
Áp lực rất lớn của châu Á
Tại châu Á, chỉ riêng Trung Quốc, Ấn Độ đã có gần 3 tỷ dân, Indonesia với trên 250 triệu dân và nhiều quốc gia với dân số ở mỗi nước trên dưới 100 triệu người như Việt Nam, Philippines hay Nhật Bản.
Mức độ và chỉ số phát triển của các quốc gia ở châu lục này lại rất khác nhau. Sri Lanka hay Bangladesh, Afghanistan là những nền kinh tế kém phát triển nhất, nghèo nhất, dễ bị nạn đói hoành hành nhất..
Giám đốc Club Demeter Sébastien Abis phân tích sâu hơn về bài toán nan giải của các nước châu Á, kể cả những quốc gia có nhiều phương tiện như Trung Quốc hay Singapore: “Trong hoàn cảnh đã khó khăn đó, các nước châu Á đứng trước một bài toán nan giải là làm thế nào để tăng mức sản xuất nội địa, tự chủ về mặt nông nghiệp giữa lúc môi trường càng lúc càng phức tạp vì thời tiết thay đổi bất thường và ngày càng khắc nghiệt, ví dụ như đợt nắng nóng vừa qua ở Ấn Độ hay những đợt mưa lũ gây thiệt hại cho mùa màng. Thêm vào đó là xu hướng giá các nguyên liệu tăng cao, xăng dầu đắt đỏ và phân bón khan hiếm. Vậy làm thế nào để bảo đảm an ninh lương thực và các nguồn nhập khẩu đồng thời đảm bảo nguồn cung ứng?”.
Giá dầu mỏ trên thế giới trong tháng 5/2022 đã tăng 80% so với cùng thời kỳ năm ngoái. Giá phân bón cũng bị nhân lên gấp 4 lần trong vòng một năm do Nga là một trong những nhà cung cấp phân bón hóa học “nặng ký” của thế giới.
Không có phân bón của Nga, các vựa lúa mỳ của thế giới từ Ấn Độ đến Trung Quốc hay Mỹ và cả Pháp, Brazil đều điêu đứng, như ghi nhận của Giám đốc tập hợp các nhà nghiên cứu nông nghiệp Club Demeter.
“Gậy ông đập lưng ông”
Giám đốc Club Demeter Sébastien Abis cho rằng bên cạnh những yếu tố khách quan đang không ngừng đẩy giá nông phẩm lên cao thì còn phải tính đến những nước cờ “ích kỷ” hay đơn giản là một sai lầm về chiến thuật của một số nước đông dân nhất địa cầu. Đương nhiên mọi người nghĩ ngay đến trường hợp của Trung Quốc với gần 1,5 tỷ dân.
Trung Quốc thường xuyên bị thiên tai, (hạn hán và lũ lụt) gây thiệt hại mùa màng. Là một trong những nhà sản xuất lớn bậc nhất thế giới trong nhiều lĩnh vực, nhu cầu tiêu thụ nông phẩm của Trung Quốc cũng lớn không kém. Vì thế, nước này thường xuyên là “nguồn nhập khẩu quan trọng của thế giới”.
Thêm vào đó, Trung Quốc lại có phương tiện về tài chính, ngoại giao để thuyết phục các nhà cung cấp phục vụ Trung Quốc trước một số quốc gia châu Á khác.
Giám đốc Sébastien Abis nhìn nhận áp lực về an ninh lương thực của Bắc Kinh là rất lớn: “Nhu cầu của thị trường Trung Quốc liên quan trực tiếp đến thị trường nội địa rộng lớn của nước này và khả năng sản xuất thì chỉ có hạn, cho dù Trung Quốc đang đưa những công nghệ mới vào trồng trọt và chăn nuôi để tăng năng suất và nhất là để không phải lệ thuộc vào phần còn lại của thế giới. Trong 15 năm trở lại đây, cán cân thương mại của Trung Quốc về lương thực, thực phẩm luôn bị thâm hụt nghiêm trọng”.
Ám ảnh về “an ninh lương thực” là con dao hai lưỡi, nhà nghiên cứu Sébastien Abis giải thích thêm và nêu bật kinh nghiệm cụ thể gần đây của Ấn Độ và Indonesia: “Khi tình hình địa chính trị bấp bênh hơn hay trong trường hợp đại dịch như vừa qua, đúng là người dân có khuynh hướng tích trữ lương thực thực phẩm. Họ mua vào nhiều hơn bình thường, ai cũng lo xa đề phòng đói kém. Nhưng mọi người quên mất rằng khi cung đã cao hơn cầu, càng tích trữ, thì giá càng được đẩy lên cao”.
Điều đó có nghĩa là chính người dân đang tự tạo ra lạm phát. Thêm vào đó, Ấn Độ tuyên bố ngừng xuất khẩu lúa mỳ để bảo đảm nhu cầu nội địa của hơn 1 tỷ người dân, sau đó đến lượt Indonesia, một trong những nhà xuất khẩu dầu cọ của thế giới ngưng xuất khẩu dầu.
Ngay lập tức, giá hai mặt hàng này đã tăng vọt sau quyết định của New Dehli và Jakarta. Chung cuộc, cả hai quốc gia nói trên đều đã phải dừng lại.
Lúa mỳ khan hiếm, gạo thì sao?
Trong khi đó, châu Á còn phải đối mặt với một thách thức khác, đó là kịch bản châu Phi hoặc Trung Đông chuyển hướng sang gạo châu Á sau khi mất đi nguồn cung lúa mỳ và ngũ cốc của Ukraine do cuộc xung đột kéo dài.
Hệ quả kèm theo là giá gạo trên thế giới tăng cao và đe dọa trực tiếp “nồi cơm” của nhiều nước châu Á. Trước khi trả lời các câu hỏi này, chuyên gia Sébastien Abis lưu ý rằng Việt Nam, Indonesia và Philippines là ba nền kinh tế năng động ở khu vực Đông Nam Á, với 450 triệu dân. Mức sống của tầng lớp trung lưu ở các nước này đã tăng nhanh trong thời gian gần đây, nhu cầu tiêu thụ cả về mặt chất lượng lẫn khối lượng qua đó cũng tăng theo.
Riêng về câu hỏi châu Á có lo thiếu gạo hay không, chuyên gia Sébastien Abis cho rằng câu trả lời trước mắt là không. Theo ông, gần đây, châu Phi tiêu thụ gạo nhiều hơn. Các luồng giao thương giữa châu Á và châu Phi trở nên quan trọng hơn so với trước, chủ yếu là hướng sang các nước ở phía Nam sa mạc Sahara. Thế rồi, chính các quốc gia này cũng bắt đầu trồng lúa để bớt bị lệ thuộc vào gạo nhập từ nước ngoài. Đây là một trong những thay đổi lớn trên thị trường ngũ cốc của thế giới trong 10 năm vừa qua.
Tuy nhiên, ông cũng nhận định rằng: “Đúng là thị trường gạo rất quan trọng do đây là một trong ba loại ngũ cốc phổ biến nhất trên thế giới, sau ngô và lúa mỳ. Khác với ngô, gạo chủ yếu phục vụ nhu cầu của con người. Sản lượng của thế giới là 500 triệu tấn một năm, trong đó 10% là đề xuất khẩu và ba nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới là Ấn Độ, Việt Nam và Thái Lan”. Do đó, chỉ cần một trong ba quốc gia này mất mùa thì cũng sẽ ảnh hướng đến thị trường của thế giới./.
TTXVN
- lúa mì li>
- An ninh lương thực li> ul>
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Tham vấn kỹ thuật phân tích chuỗi giá trị và đánh giá rủi ro trong chăn nuôi heo
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Tham vấn kỹ thuật phân tích chuỗi giá trị và đánh giá rủi ro trong chăn nuôi heo
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất