Bản tin thị trường ngành thịt trong nước và thế giới tháng 3/2025 - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 68.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Giang 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 68.000 - 75.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 70.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 68.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 75.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 74.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 74.000 - 78.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 75.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 77.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 78.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Long An 74.000 đ/kg
    •  
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 68.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 68.000 đ/kg
  • Bản tin thị trường ngành thịt trong nước và thế giới tháng 3/2025

    [Chăn nuôi Việt Nam] – 2 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam giảm 7,1% về lượng, nhưng tăng 13,9% về trị giá; nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt tăng 20,8% về lượng và tăng 25,9% về trị giá so với 2 tháng đầu năm 2024.

     

    THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

     

    Chỉ số giá thịt của FAO đạt trung bình 118 điểm vào tháng 02/2025, giảm nhẹ 0,1 điểm (0,1%) so với tháng 01/2025 nhưng vẫn cao hơn 5,4 điểm (4,8%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá thịt gia cầm quốc tế giảm do nguồn cung toàn cầu dồi dào, chủ yếu là do khả năng xuất khẩu cao từ Brasil, mặc dù dịch cúm gia cầm vẫn tiếp diễn ở các nước sản xuất lớn khác.

     

    Tương tự, chỉ số giá thịt lợn giảm do chịu áp lực từ mức giá thấp hơn ở Liên minh châu Âu. Trái lại, chỉ số giá thịt cừu tăng, do nhu cầu toàn cầu tăng mạnh. Trong khi đó, chỉ số giá thịt bò tăng bởi giá ở Úc tăng trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu tăng, đặc biệt là từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, mức tăng này đã được bù đắp một phần bởi giá thịt bò Brasil thấp hơn do nguồn cung gia súc dồi dào.

     

    Trung Quốc

     

    Theo dự báo của USDA, nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục duy trì ổn định trong năm 2025, trong khi lượng thịt lợn xuất khẩu dự kiến sẽ tăng nhẹ.

     

    Trong năm 2024, nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc giảm 31% so với năm 2023 do nhu cầu thị trường yếu. Dự kiến, nhập khẩu thịt lợn năm 2025 sẽ giữ ở mức tương đương năm trước, khoảng 1,3 triệu tấn quy đổi thân thịt (CWE).

     

    Hiện nay, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu thịt lợn từ Tây Ban Nha, Brasil, Đan Mạch, Hà Lan, Canada và Hoa Kỳ. Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành cuộc điều tra chống bán phá giá đối với thịt lợn và các sản phẩm phụ từ lợn có nguồn gốc từ Liên minh châu Âu (EU). Điều này đã gây lo ngại cho các nhà nhập khẩu, và một số doanh nghiệp có kế hoạch đa dạng hóa nguồn cung.

     

    Ngày 4/3/2025, Ủy ban Thuế quan thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc (SCTC) đã thông báo áp dụng thuế trả đũa đối với các sản phẩm nông nghiệp của Hoa Kỳ. Theo đó, thịt lợn nhập khẩu từ Hoa Kỳ sẽ chịu mức thuế bổ sung 10%. Điều này có thể làm tăng chi phí nhập khẩu và ảnh hưởng đến lượng nhập khẩu thịt lợn từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tác động của chính sách thuế trả đũa này chưa được đưa vào dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) do chưa có hiệu lực tại thời điểm công bố.

     

    Dự báo năm 2025, xuất khẩu thịt lợn của Trung Quốc sẽ tăng nhẹ, đạt khoảng 100.000 tấn quy đổi thân thịt (CWE). Kể từ năm 2020, xuất khẩu thịt lợn của Trung Quốc duy trì ổn định với hai thị trường chính là Hồng Kông và Nhật Bản dự kiến vẫn sẽ tiếp tục nhập khẩu thịt lợn Trung Quốc với sản lượng ổn định.

     

    Úc

     

    Năm 2025, sản lượng thịt lợn của Úc dự báo đạt 490.000 tấn (quy đổi thân thịt – CWE), tăng 4% so với năm 2024, đánh dấu năm tăng trưởng thứ tư liên tiếp. Nguyên nhân chính là do giá thịt lợn trong nước cải thiện và giá thức ăn chăn nuôi giảm.

     

    Tiêu thụ thịt lợn năm 2025 ước tính đạt 660.000 tấn (CWE), tăng 1,6% so với năm 2024, mức tiêu thụ cao nhất từ trước đến nay tại Úc. Dự kiến nhập khẩu thịt lợn của Úc trong năm 2025 sẽ giữ mức ổn định 225.000 tấn (CWE).

     

    Năm 2024, chi phí sinh hoạt giảm mạnh hơn dự đoán, nhu cầu tiêu thụ thịt lợn cao hơn. Mặc dù tiêu thụ thịt lợn sẽ tiếp tục tăng trong năm 2025, nhưng mức tăng sản lượng trong nước dự kiến đáp ứng được nhu cầu này, do đó nhập khẩu sẽ không có sự thay đổi đáng kể nào.

     

    Trong những năm gần đây, 4 nhà cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Úc chiếm hơn 95% tổng lượng nhập khẩu. Đến năm 2024, Hoa Kỳ đã lấy lại vị trí nhà cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Úc, chiếm gần 50% tổng lượng thịt lợn nhập khẩu. Sự thay đổi này diễn ra sau khi xuất khẩu thịt lợn từ EU sang Trung Quốc giảm, khiến giá thịt lợn EU thấp hơn và Úc tăng nhập khẩu từ EU vào các năm 2021-2022. Tuy nhiên, với việc không có biến động thương mại lớn nào được dự báo trong năm 2025, xu hướng nhập khẩu thịt lợn của Úc dự kiến sẽ giữ ổn định như năm 2024.

     

    THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC

     

    Trong tháng 3/2025, giá lợn hơi trên cả nước tăng so với tháng 02/2025, giá khảo sát ở các tỉnh thành dao động trong khoảng 68.000 – 83.000 đồng/kg. Cụ thể:

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 68.000 – 78.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng 3/2025 giá tăng từ 6.000 – 8.000 đồng/kg, sau tiếp tục tăng từ 1.000 – 5.000 đồng/kg, đến cuối tháng giảm từ 1.000 – 6.000 đồng/kg so với cuối tháng 02/2025.

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên dao động trong khoảng 75.000 – 82.000 đồng/kg, trong những ngày đầu tháng giá lợn hơi tăng từ 10.000 – 11.000 đồng/kg, đến giữa tháng tăng từ 4.000 – 10.000 đồng/kg, đến gần những ngày cuối tháng giảm từ 1.000 – 4.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 02/2025.

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Nam dao động trong khoảng 77.000 – 83.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng giá lợn hơi tăng 11.000 đồng/kg, sau tiếp tục tăng 4.000 – 10.000 đồng/kg, những ngày cuối tháng giảm từ 1.000 – 3.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 02/2025.

     

     

    TÌNH HÌNH XUẤT, NHẬP KHẨU THỊT VÀ CÁC SẢN PHẨM TỪ THỊT CỦA VIỆT NAM

     

    Tình hình xuất khẩu

     

    Theo tính toán từ số liệu thống kê của Cục Hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 3,05 nghìn tấn thịt và các sản phẩm thịt, trị giá 17,73 triệu USD, giảm 7,1% về lượng, nhưng tăng 13,9% về trị giá so với 2 tháng đầu năm 2024.

     

    Trong 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt tới 24 thị trường. Trong đó, Hồng Kông vẫn là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam, chiếm 57,6% về lượng và chiếm 70,08% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, đạt 1,7 nghìn tấn, trị giá 12,43 triệu USD, tăng 3,2% về lượng, tăng 17% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

     

    Trong đó sản phẩm thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông chủ yếu vẫn là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh. Sau thị trường Hồng Kông, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt trong 2 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng về lượng và trị giá ở các thị trường như Trung Quốc, Bỉ, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản.

     

     

    Trong 2 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam chủ yếu gồm các chủng loại như: thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 56,61% về lượng và chiếm 70,28% về trị giá; Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 21,7% về lượng và chiếm 14,17% về trị giá; Thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 17,74% về lượng và chiếm 13,73% về trị giá; Các chủng loại khác chiếm 3,95% về lượng và chiếm 1,82% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2025.

     

    Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh vẫn là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất, với lượng đạt 1,7 nghìn tấn, trị giá 12,46 triệu USD, giảm 8,7% về lượng, tăng 10,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hồng Kông giảm 2,6% về lượng, tăng 15% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Còn lại xuất khẩu thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh sang các thị trường tiếp theo như Malaysia, Singapore đều giảm so với cùng kỳ năm 2024; xuất khẩu sang Anh ở mức thấp. Theo Thương vụ Việt Nam tại Singapore, Cơ quan Quản lý Thực phẩm Singapore (SFA) đã chính thức chấp thuận nhập khẩu một số sản phẩm chăn nuôi từ Việt Nam.

     

    Đây là kết quả của quá trình vận động chính sách, phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Công Thương, Bộ NN-MT và các doanh nghiệp Việt Nam nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường Singapore. Các sản phẩm được SFA phê duyệt bao gồm thịt gia cầm đã qua chế biến nhiệt của Công ty CPV Food Co. Ltd và Công ty MeatDeli HN Company Ltd; trứng gia cầm và thịt (không bao gồm thịt bò) đóng hộp/tiệt trùng theo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Cục Chăn nuôi và Thú y Việt Nam.

     

    Việc Singapore mở cửa đối với các mặt hàng này không chỉ tạo động lực cho ngành chăn nuôi Việt Nam mà còn góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

     

    Tình hình nhập khẩu

     

    Theo tính toán từ số liệu thống kê của Cục Hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 140,3 nghìn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 291,01 triệu USD, tăng 20,8% về lượng và tăng 25,9% về trị giá so với 2 tháng đầu năm 2024.

     

     

    Trong 2 tháng đầu năm 2025, Ấn Độ vẫn là thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 20% trong tổng lượng nhập khẩu của cả nước, đạt 28,07 nghìn tấn, trị giá 95,45 triệu USD, giảm 19,6% về lượng và giảm 10,2% về trị giá so với 02 tháng đầu năm 2024.

     

    Nhập khẩu từ một số thị trường cũng giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2024 như Úc, Đức, Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Bỉ, Đan Mạch… Trái lại, nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam từ nhiều thị trường trong 2 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2024 như Nga, Hoa Kỳ, Brasil, Canada, Ba Lan, Hà Lan, Hồng Kông, Iran, Xlô-vê-ni-a…

     

    Trong 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu: thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 41,45% về lượng và 22,07% về trị giá; Thịt trâu tươi đông lạnh chiếm 18,45 về lượng và 30,81% về trị giá; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 18,69% về lượng và 12,26% về trị giá; Thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 16,25% về lượng và 20,67% về trị giá; Thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 3,49% về lượng và 12,88% về trị giá; các mặt hàng khác chiếm 1,67% về lượng và chiếm 1,31% về trị giá trong tổng nhập khẩu chủng loại thịt 2 tháng đầu năm 2025.

     

    Nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2025 đạt 22,8 nghìn tấn, trị giá 60,15 triệu USD, tăng 158,8% về lượng, tăng 209,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.; giá nhập khẩu trung bình ở mức 2.635 USD/ tấn, tăng 19,9% so với cùng kỳ năm 2024.

     

    Trong 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu thịt lợn từ 16 thị trường trên thế giới, trong đó Nga – thị trường lớn nhất, chiếm 45,47% tổng lượng thịt lợn nhập khẩu của cả nước; Brasil chiếm 38,2%; Đức chiếm 4,05%; Tây Ban Nha chiếm 3,31%; Hà Lan chiếm 2,8%; Hoa Kỳ chiếm 1,2%; Canada chiếm 1,05%; các thị trường khác chiếm 3,92%.

     

     

    Nguồn: Bản tin thị trường Nông Lâm Thủy sản – Bộ Công thương

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.

    Sản phẩm doanh nghiệp