Bản tin thị trường ngành thịt trong nước và thế giới tháng 8/2025 - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Bản tin thị trường ngành thịt trong nước và thế giới tháng 8/2025

    [Chăn Nuôi Việt Nam] – Tháng 8/2025, giá lợn hơi trong nước có xu hướng giảm so với tháng 7/2025, dao động khoảng 55.000 – 65.000 đồng/kg. 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam giảm. Nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt tăng với cùng kỳ năm 2024.

     

    THỊ TRƯỜNG THỊT THẾ GIỚI

     

    Theo “Báo cáo triển vọng nông nghiệp 2025-2034” của OECD-FAO về diễn biến thị trường và dự báo trung hạn cho thị trường thịt thế giới, tiêu thụ thịt toàn cầu dự kiến sẽ đạt 47,9 triệu tấn trong thập kỷ tới. Dự báo đến năm 2034, mức tiêu thụ toàn cầu của các loại thịt gia cầm, thịt cừu, thịt bò và thịt lợn sẽ tăng lần lượt khoảng 21%, 16%, 13% và 5%. Mức tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm dự kiến sẽ tăng 0,9 kg/người/năm (tính theo trọng lượng thịt ăn được ở dạng bán lẻ).

     

    Tiêu thụ thịt lợn được dự báo sẽ tăng ở tất cả các khu vực, ngoại trừ Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Thụy Sĩ – những nơi mức tiêu thụ đã cao và chế độ ăn đang chịu ảnh hưởng ngày càng lớn từ sự quan tâm tới sức khỏe, môi trường và xã hội. Tiêu thụ thịt lợn bình quân đầu người trên toàn cầu được dự báo sẽ giảm 4% so với giai đoạn trước đây do mức tiêu thụ tại các quốc gia thu nhập cao không tăng, trong khi dân số lại tăng nhanh ở các khu vực có truyền thống tiêu thụ thịt lợn thấp.

     

    Tại khu vực Mỹ Latinh, mức tiêu thụ bình quân đầu người dự kiến tăng mạnh nhất, thêm 1,3 kg/năm (tính theo trọng lượng thịt ăn được ở dạng bán lẻ). Ở các khu vực khác như châu Á, Bắc Mỹ và EU, mức tiêu thụ bình quân đầu người được dự đoán sẽ tăng chậm hơn, thậm chí có thể giảm nhẹ.

     

    Vai trò ngày càng giảm của Trung Quốc trong nhập khẩu thịt sẽ làm thay đổi mô hình thương mại toàn cầu. Đến năm 2034, thị phần nhập khẩu thịt của Trung Quốc dự kiến giảm từ 20% xuống còn 16%. Việc giảm phụ thuộc vào nhập khẩu thịt lợn đã khiến sản lượng tại các nước xuất khẩu chính bị kiềm chế. Xu hướng giảm tương tự cũng đang diễn ra đối với nhập khẩu thịt gia cầm của Trung Quốc. Tổng nhập khẩu thịt toàn cầu được dự báo tăng 10% trong thập kỷ tới, so với mức tăng 37% trong thập kỷ trước và vẫn tiềm ẩn rủi ro sụt giảm nếu các nước gia tăng các biện pháp kiểm soát thương mại.

     

    Các đợt bùng phát dịch bệnh động vật gần đây đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác trong an toàn sinh học để duy trì tính bền vững cho ngành thịt. Dịch bệnh tiếp tục gây gián đoạn nghiêm trọng cho ngành, đặc biệt là sự lan rộng của cúm gia cầm độc lực cao (HPAI), dịch tả lợn châu Phi (ASF), bệnh lở mồm long móng (FMD)…

     

    Peru đặt mục tiêu tăng gấp đôi mức tiêu thụ thịt lợn vào năm 2030: Trong khuôn khổ “Ngày Quốc gia món da lợn Peru”, Bộ Phát triển Nông nghiệp và Thủy lợi Peru (MIDAGRI) đã công bố mục tiêu của Chính phủ là tăng gấp đôi mức tiêu thụ thịt lợn trong nước, đạt 20 kg/người/năm vào năm 2030.

     

    Theo số liệu của MIDAGRI, hiện Peru có đàn lợn khoảng 3,4 triệu con, sản lượng hàng năm hơn 200.000 tấn thịt lợn. Tuy nhiên, mức tiêu thụ bình quân mới đạt 11 kg/người, thấp hơn mức trung bình của khu vực.

     

    Thông qua các chiến lược như “Ngày Quốc gia món da lợn Peru”, Peru hướng tới việc tăng tiêu thụ thịt lợn, qua đó thúc đẩy kinh tế nông thôn, tạo việc làm và khẳng định thịt lợn là nguồn protein bổ dưỡng, đa dạng trong chế độ ăn của người dân Peru.

     

    THỊ TRƯỜNG THỊT TRONG NƯỚC

     

    Trong tháng 8/2025, giá lợn hơi trên cả nước có xu hướng giảm so với tháng 7/2025, dao động trong khoảng 55.000 – 65.000 đồng/kg. Cụ thể:

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 55.000 – 65.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng 8/2025 giá giảm từ 4.000 – 5.000 đồng/kg, sau tiếp tục giảm 5.000 – 6.000 đồng/kg, đến cuối tháng giảm từ 5.000 – 7.000 đồng/kg so với cuối tháng 7/2025.

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên dao động trong khoảng 56.000 – 64.000 đồng/kg, trong những ngày đầu tháng 8/2025 giá lợn hơi giảm từ 4.000 – 7.000 đồng/kg, sau tiếp tục giảm 3.000 – 5.000 đồng/kg, những ngày cuối tháng giảm từ 4.000 – 7.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 7/2025.

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Nam dao động trong khoảng 58.000 – 65.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng 8/2025 giá lợn hơi giảm từ 3.000 – 7.000 đồng/kg, sau đó giảm 2.000 – 4.000 đồng/kg, những ngày cuối tháng giảm từ 3.000 – 6.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 7/2025.

     

    Diễn biến giá lợn hơi tại miền Bắc, miền Trung – Tây Nguyên và miền Nam từ đầu tháng 10/2024 đến nay (Đơn vị tính: nghìn đồng)

     

    TÌNH HÌNH XUẤT, NHẬP KHẨU THỊT VÀ CÁC SẢN PHẨM TỪ THỊT CỦA VIỆT NAM

     

    Tình hình xuất khẩu:

     

    Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Cục Hải quan, 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 13,05 nghìn tấn thịt và các sản phẩm thịt, trị giá 68,75 triệu USD, giảm 2,6% về lượng, nhưng tăng 22,6% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2024.

     

    Trong 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt tới 28 thị trường, trong đó Hồng Kông vẫn là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam, chiếm 46,63% về lượng và chiếm 59,77% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, với lượng đạt 6,08 nghìn tấn, trị giá 41,09 triệu USD, tăng 7,9% về lượng và tăng 23,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Sản phẩm thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông chủ yếu vẫn là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh.

     

    Tiếp theo xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt tăng trưởng cả về lượng và trị giá trong 7 tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm 2024 tới một số thị trường như: Trung Quốc, Canada, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Liban… Tuy nhiên, xuất khẩu giảm tới các thị trường như: Bỉ, Hoa Kỳ, Malaysia, Campuchia… 

     

    Cơ cấu thị trường xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam

    (Tỷ trọng % tính theo trị giá)

     

    Trong 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam chủ yếu gồm các chủng loại như thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 38% về lượng và chiếm 54,7% về trị giá; Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05 tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 28,7 về lượng và chiếm 20,7% về trị giá; Thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 32,8% về lượng và chiếm 23,3% về trị giá; Các chủng loại khác chiếm 0,6% về lượng và chiếm 1,3% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2025.

     

    Trong đó, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh vẫn là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất, với lượng đạt 4,9 nghìn tấn, trị giá 37,6 triệu USD, giảm 9% về lượng, nhưng tăng 18,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu tới thị trường chủ yếu là Hồng Kông giảm 3,7% về lượng, nhưng tăng 21,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

     

    Tình hình nhập khẩu:

     

    Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 534,8 nghìn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 1,06 tỷ USD, tăng 11% về lượng và tăng 13,1% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2024.

     

    Ấn Độ tiếp tục thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2025, chiếm 17,86% trong tổng lượng thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu của cả nước, với lượng đạt 95,5 nghìn tấn, trị giá 334,51 triệu USD, giảm 10,8% về lượng và giảm 4,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

     

    Nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam từ một số thị trường khác cũng giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2024 như: Úc, Hà Lan, Iran, Đan Mạch, Trung Quốc, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất…

     

    Trong khi đó, Việt Nam tăng nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt từ các thị trường trong 7 tháng đầu năm 2025 như: Nga, Hoa Kỳ, Brasil, Ba Lan, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Pháp, Bỉ, New Zealand, Slovenia, Algérie…

     

    Cơ cấu thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt cho Việt Nam

    (Tỷ trọng % tính theo lượng)

     

    Trong 7 tháng đầu năm 2025, các chủng loại thịt Việt Nam chủ yếu nhập khẩu gồm: Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 39,4% về lượng và chiếm 20% về trị giá; Thịt trâu tươi đông lạnh chiếm 16% về lượng và chiếm 28,6% về trị giá; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 19,6% về lượng và chiếm 13,6% về trị giá; Thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 16,1% về lượng và chiếm 21,6% về trị giá; Thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 3,7% về lượng và chiếm 12,8% về trị giá; Các mặt hàng khác chiếm 5,2% về lượng và chiếm 3,4% về trị giá trong tổng nhập khẩu thịt 7 tháng đầu năm 2025.

     

    Trong 7 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh về Việt Nam đạt 86,1 nghìn tấn, trị giá 230,76 triệu USD, tăng 68,7% về lượng và tăng 98,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Giá trung bình nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh về Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2025 ở mức 2.676 USD/tấn, tăng 17,78% so với 7 tháng đầu năm 2024.

     

    Trong 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu thịt lợn từ 21 thị trường. Trong đó, Nga tiếp tục là thị trường cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 47,49% tổng lượng thịt lợn nhập khẩu của cả nước; Tiếp theo là Brasil chiếm 32,06%; Tây Ban Nha chiếm 4,92%; Canada chiếm 4,37%; Ba Lan chiếm 3,2%; các thị trường khác chiếm 7,96%.

     

    Cơ cấu thị trường cung cấp thịt lợn cho Việt Nam

    (Tỷ trọng % tính theo lượng)

     

    Nguồn: Bản tin thị trường Nông, Lâm, Thủy sản – Bộ Công Thương

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.