Các Hội/Hiệp hội và doanh nghiệp kiến nghị về Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật Thủy sản - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Các Hội/Hiệp hội và doanh nghiệp kiến nghị về Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật Thủy sản

    [Chăn nuôi Việt Nam] – Sáng ngày 17/7, tại Hà Nội, 06 Hội, Hiệp hội trong lĩnh vực Nông nghiệp bao gồm: Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, Hội KHKT Thú y Việt Nam, Hội Thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn, Hiệp hội Gia cầm Việt Nam và Hiệp hội Phân bón Việt Nam (FAV) tổ chức tọa đàm: Hội, Hiệp hội, Doanh nghiệp trao đổi về nội dung kiến nghị sửa đổi các Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật Thủy sản.

    Toàn cảnh tọa đàm

     

    Theo TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, sau quá trình làm việc tích cực của các Hội/Hiệp hội, cơ bản Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn được ban hành và có hiệu lực vào ngày 01/01/2026. Trước khi đi vào hiệu lực, sẽ có hướng dẫn bằng nghị định.

     

    Kết quả quan trọng nhất đó là phân loại sản phẩm hàng hóa ra 3 nhóm. Nhóm 1: Rủi ro thấp; Nhóm 2: Rủi ro trung bình; Nhóm 3: Rủi ro cao.

     

    Đối với vấn đề công bố hợp quy: Nhóm 1 (Rủi ro cao): Công bố hợp quy có sự giám sát của cơ quan chuyên ngành và phòng thí nghiệm chuyên ngành được chỉ định, đạt tiêu chuẩn. Nhóm 2 (Rủi ro trung bình): Tự công bố hợp quy theo tiêu chuẩn và không có sự giám sát của bên thứ ba. Nhóm 3 (Rủi ro thấp): Không phải công bố hợp quy.

     

    Chính phủ đưa ra nghị định ban hành danh mục sản phẩm nào là rủi ro thấp, trung bình, cao và sẽ có hội đồng xét duyệt kỹ lưỡng. Đó là thành quả của sự đấu tranh kiên trì, không mệt mỏi của các Hội, Hiệp hội và đã được Nhà nước lắng nghe.

     

    TS. Dương cũng cho rằng, đối với Luật Chăn nuôi và Luật Thú y đang trong thời gian đóng góp ý kiến cho dự thảo, là cơ hội vàng để ngành tháo gỡ được những điểm nghẽn, những bất cập của ngành.

     

    Là người có nhiều năm làm việc trong việc quản lý thức ăn chăn nuôi, bà Ninh Thị Len, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi chia sẻ một số kiến nghị như:

     

    Kiến nghị bỏ hoặc sửa đổi quy định “sử dụng nguyên liệu có thời hạn sử dụng ngắn hơn so với thành phẩm” do việc chứng minh nguyên liệu có hạn sử dụng ngắn hơn thành phẩm rất khó.

     

    Đặc biệt, bà Len nhấn mạnh, Luật Chăn nuôi và Luật Thủy sản cần thống nhất trong quản lý về thức ăn chăn nuôi và thức ăn thủy sản. Bởi lẽ, các doanh nghiệp thường sản xuất thức ăn chăn nuôi và thức ăn thủy sản cùng một nhà máy. Việc nguyên liệu đăng ký cho thủy sản có được dùng cho chăn nuôi hay không đó là điều chúng ta không thể biết. Quản lý thức ăn thủy sản và chăn nuôi nên giống nhau. Thức ăn chăn nuôi có tiền kiểm, còn bên thủy sản thì không. Cùng một Bộ mà chịu hai chế độ hành chính khác nhau là không thể được.

     

    Đối với Luật Thú y, đại diện Hội Thú y Việt Nam đề xuất đối với sản phẩm thuốc thú y, trường hợp thay đổi liều dùng thuốc thú y hoặc thay đổi đường dùng (ví dụ vẫn là qua đường uống, chỉ thay đổi từ dạng bột sang cốm), không nhất thiết phải đăng ký theo quy trình như đăng ký sản phẩm mới. Bên cạnh đó, đại diện Hội Thú y Việt Nam bày tỏ về việc nhân lực cho phòng thí nghiệm thú y tại Việt Nam hiện nay đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt trầm trọng, đặc biệt là xét nghiệm. “Nhân sự có chuyên môn về công nghệ sinh học đáp ứng đúng nhu cầu, nhưng các quy định trong Luật lại yêu cầu người làm việc trong lĩnh vực này phải có bằng cấp trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y. Điều này thật sự đang gây khó cho doanh nghiệp trong việc tuyển dụng”, đại diện Hội Thú y nhấn mạnh.

     

    Cũng tại hội thảo, các đại biểu đã có nhiều kiến nghị sửa đổi Luật về khoảng cách trang trại chăn nuôi, quy định công bố dịch bệnh, quy định về tiêu chuẩn chất thải trong chăn nuôi…

     

    Kết luận tại tọa đàm, TS. Nguyễn Xuân Dương khẳng định rằng, các Hội/Hiệp hội mong muốn lắng nghe các kiến nghị cho Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật Thủy sản sẽ được tổng hợp bởi Hội và báo cáo lên các cơ quan chức năng, đồng thời chia sẻ thông tin để tạo dư luận xã hội.

     

    H.N

     

    Góp ý dự thảo Luật Chăn nuôi, Luật Thú y và Luật Thủy sản

     

    Ngày 4/7/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có công văn số 4055 / BNNMT-PC  gửi các cơ quan liên quan về việc góp ý nhiều dự thảo Luật mà Bộ quản lý, trong đó có Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật Thủy sản. Hồ sơ dự thảo Luật được đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

     

    Trong dự thảo ngày 26.6.2025 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật Chăn nuôi, Thú y như sau:

     

    3.3. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chăn nuôi (Điều 3 dự thảo Luật)

     

    Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 03 nhóm nội dung sau:

     

    a) Nhóm sửa đổi, bổ sung về sắp xếp tổ chức bộ máy:

     

    – Nhóm nội dung sửa đổi, bổ sung về phân quyền: Điểm a khoản 22, khoản 18, điểm b khoản 21, khoản 4, khoản 12, khoản 13 Điều 3 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 19; khoản 2 Điều 52; khoản 2 Điều 68; khoản 2 và 4 Điều 15, khoản 3 Điều 16; khoản 2 Điều 21; điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 39; Điều 34; Điều 35; khoản 3 Điều 41 Luật Chăn nuôi.

     

    – Nhóm nội dung về phân định thẩm quyền (bỏ cấp huyện, xây dựng chính quyền 02 cấp): Điểm a khoản 21 Điều 3 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 80 Luật Chăn nuôi.

     

    – Nhóm nội dung về thực hiện Nghị quyết số 190/2025/QH15: Thực hiện thay thế cụm từ “Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn” bằng “Bộ Nông nghiệp và Môi trường”; cụm từ “Bộ Tài nguyên và Môi trường” bằng “Bộ Nông nghiệp và Môi trường” tại các điều, khoản, điểm của Luật Chăn nuôi.

     

    b) Nhóm nội dung sửa đổi về về cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh: (i) Về cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư kinh doanh: bãi bỏ điều kiện về biện pháp bảo đảm an toàn cho người, vật nuôi, môi trường xung quanh tại điểm c khoản 4 Điều 23; bãi bỏ điều kiện về nguồn nước bảo đảm chất lượng cho hoạt động chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi tại điểm b khoản 1 Điều 54; bãi bỏ điều kiện về biện pháp bảo vệ môi trường đáp ứng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường quy định tại điểm k khoản 1 Điều 38,…(ii) Về cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính: Cắt giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính đối với thủ tục hành chính cấp, cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng tại Điều 39 Luật Chăn nuôi, công bố, thay đổi thông tin sản phẩm thức ăn bổ sung tại Điều 34, 35 Luật Chăn nuôi…

     

    c) Nhóm nội dung sửa đổi về những vấn đề vướng mắc, phát sinh từ thực tiễn:

     

    – Về điều kiện cơ sở ấp trứng gia cầm: Luật Chăn nuôi chưa quy định cụ thể đối với hoạt động ấp nở trứng gia cầm. Trong khi hoạt động ấp nở trứng gia cầm đã và đang diễn ra tại các địa phương và doanh nghiệp. Trong thời gian triển khai Luật Chăn nuôi, các cơ quan quản lý chuyên ngành không có căn cứ pháp lý để thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động ấp nở trên địa bàn. Hơn nữa, trong thực tiễn, chuỗi cung ứng giống gia cầm thì ấp nở là một mắt xích quan trọng, quyết định chất lượng, xuất xứ con giống gia cầm 01 ngày tuổi cho sản xuất. Đặc biệt có hiện tượng nhập lậu trứng vịt, trứng gà về nội địa để ấp nở mà không có chế tài xử phạt. Qua thời gian kiểm tra tại các địa phương cho thấy việc đưa trứng không rõ nguồn gốc vào cơ sở ấp nở diễn ra phổ biến, dẫn đến chất lượng giống gia cầm kém chất lượng ra thị trường mà không xử lý ngăn chăn được. Việc sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 23 Luật Chăn nuôi về quản lý đối với hoạt động ấp nở trong Luật Chăn nuôi là rất cần thiết.

     

    – Về khảo nghiệm giống vật nuôi và thức ăn chăn nuôi:

     

    + Đối với khảo nghiệm giống vật nuôi: Việc khảo nghiệm giống vật nuôi nhằm đánh giá sự phù hợp của dòng, giống vật nuôi mới đối với điều kiện của Việt Nam. Tuy nhiên, việc quy định khảo nghiệm giống vật nuôi theo quy chuẩn là không phù hợp. Vì theo Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật thì quy chuẩn phải đưa ra mức giới hạn an toàn bắt buộc mà sản phẩm hoặc quá trình phải đáp ứng và phải công công bố hợp quy. Do đó, quy định khảo nghiệm giống vật nuôi theo quy chuẩn là không phù hợp, không đúng bản chất, gây bất cập trong công tác khảo nghiệm và công nhận dòng, giống vật nuôi mới.

     

    Mặt khác, theo Công văn số 4571/BKHCN-TĐC ngày 19/11/2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc góp ý xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia phục vụ quá trình khảo nghiệm, kiểm định giống vật nuôi, Bộ Khoa học và Công nghệ nêu rõ lý do “không xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với quá trình khảo nghiệm, kiểm định giống vật nuôi và xây dựng theo dạng văn bản kỹ thuật khác phù hợp”. Do vậy, đề nghị bỏ quy định có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm dòng, giống vật nuôi. Thay vào đó, giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành quy định về khảo nghiệm dòng, giống vật nuôi.

     

    + Đối với khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi: Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật: “Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế – xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật Chăn nuôi: “Khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi là việc đánh giá chất lượng, an toàn của thức ăn chăn nuôi đối với vật nuôi và môi trường thông qua việc nuôi dưỡng thử nghiệm trên vật nuôi theo từng giai đoạn sinh trưởng hoặc chu kỳ sản xuất”. Như vậy, xét về bản chất thì không thể ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi theo quy định của Luật Chăn nuôi.

     

    Vì vậy, sửa đổi khoản 3, 4 Điều 26; khoản 4 Điều 37 Luật Chăn nuôi để xử lý vướng mắc nêu trên là cần thiết.

     

    – Ngoài ra, còn các vấn đề khác như: mã số cơ sở chăn nuôi, truy xuất nguồn gốc sản phẩm chăn nuôi tại Điều 11, tự công bố thông tin đối với thức ăn bổ sung (như thức ăn hỗn hợp), Hội đồng phúc lợi động vật, thời hạn sử dụng các loại sản phẩm, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, sử dụng kháng sinh trong sản xuất thức ăn chăn nuôi….

     

    3.13. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thú y (Điều 13 dự thảo Luật)

     

    Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 03 nhóm nội dung sau:

     

    a) Nhóm sửa đổi, bổ sung về sắp xếp tổ chức bộ máy:

     

    – Nhóm nội dung sửa đổi, bổ sung về phân quyền: Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 109; điểm a khoản 3 Điều 110; khoản 1 Điều 110; Điều 98; khoản 6 Điều 100 Luật Thú y.

     

    – Nhóm nội dung về phân định thẩm quyền (bỏ cấp huyện, xây dựng chính quyền 02 cấp): Sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 6; khoản 2 Điều 9; điểm d khoản 3 Điều 9; điểm c khoản 2 Điều 19; tên khoản 3 Điều 19; điểm d khoản 3 Điều 19; điểm b khoản 3 Điều 25; tên khoản 4 Điều 25; điểm b khoản 4 Điều 25; khoản 4 Điều 26; khoản 5 Điều 26; khoản 3 Điều 27; khoản 4 Điều 27; điểm đ, e khoản 5 Điều 27; điểm đ, e, g khoản 4 Điều 33; Khoản 5 Điều 33; khoản 4 Điều 35; điểm đ, e khoản 5 Điều 35; điểm d khoản 7 Điều 35; khoản 2 Điều 76 Luật Thú y.

     

    b) Nhóm nội dung sửa đổi về cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính: (i) Cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh tại điểm a khoản 1 Điều 73, điểm b khoản 2 Điều 73, khoản 2 Điều 88, khoản 1 Điều 90, khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 92, khoản 1 Điều 94; (ii) đơn giản hóa thủ tục hành chính tại điểm b khoản 2 Điều 81, điểm c khoản 2 Điều 82, điểm b khoản 3 Điều 82, điểm b khoản 2 Điều 86, điểm c, đ khoản 1 Điều 96, điểm c khoản 1 Điều 97 Luật Thú y.

     

    c) Nhóm nội dung sửa đổi về những vấn đề vướng mắc, phát sinh từ thực tiễn:

     

    – Về danh mục thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam: Hiện nay thuốc thú y đã có Giấy chứng nhận lưu hành được sản xuất, kinh doanh không phụ thuộc vào có tên trong danh mục thuốc thú y được phép sản xuất kinh doanh. Giấy chứng nhận lưu hành thuốc thú y đã được công bố công khai trên cổng thông tin điện tử của đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Vì vậy, cần thiết bãi bỏ điểm b khoản 4 Điều 78 Luật Thú y.

     

    – Về miễn công bố hợp quy thuốc thú y: Công bố hợp quy đối với sản phẩm hàng hóa là một khó khăn cho doanh nghiệp, gây tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam và tạo gánh nặng cho người tiêu dùng trong nước. Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật 2025, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa 2025 cũng đã quy định theo hướng miễn công bố hợp quy đối với hàng hóa đã được quản lý chất lượng theo quy định của pháp luật chuyên ngành và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng. Vì vậy, cần thiết sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 78 Luật Thú y.

     

    P.V

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Quang Ngọc
  • Cho em xin tài liệu ạ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.