Từ trước tới nay, việc lấy mẫu bệnh phẩm để chẩn đoán PRRS – bệnh tai xanh trên heo thường là mẫu máu, mô lách và phổi hay hạch bạch huyết…hạn chế ở chỗ với các mẫu bệnh phẩm trên thì ta phải mổ heo mới có thể lấy được.
Trong vài năm trở lại đây, việc lấy mẫu bệnh phẩm để chẩn đoán đã trở nên dễ dàng hơn khá là nhiều nhờ các tiến bộ kỹ thuật như việc chỉ cần lấy mẫu máu và dịch miệng là có thể xét nghiệm ra kết quả heo có bị bệnh tai xanh hay không.
Tuy vậy, để tiết kiệm, đơn giản và dễ dàng hơn trong khâu lấy mẫu để chẩn đoán bệnh tai xanh cho đến việc bảo quản mẫu thì các bác sỹ thú y, các chuyên gia thú y đến từ Mỹ đã tiến hành nghiên cứu một phương pháp lấy mẫu mới.
Đó chính là lấy phần đuôi bị cắt bỏ của heo con và phần tinh hoàn heo con (sau khi thiến) cho vào túi bóng bảo quản (như hình 2 bên dưới) sau đó lấy dịch nước chảy ra (PF) mang đi xét nghiệm bằng phương pháp real time PCR.
Mục đích của nghiên cứu này chính là để đánh giá hiệu quả của việc dùng dung dịch mẫu này để đánh giá tình trạng nhiễm virus PRRS – virus gây bệnh tai xanh trên đàn heo nái.
Đuôi heo con và tinh hoàn được cho vào túi ziplock để bảo quản.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu bệnh tai xanh – PRRS
Trước đây, việc lấy mẫu thường diễn ra sau khi phát hiện có ổ dịch bệnh tai xanh trong trại – cách làm này là cách làm bị động và không còn phù hợp, vì đến lúc đó mới kiểm tra mức độ nhiễm virus PRRS trong trại thì ý nghĩa thực tiễn không còn cao nữa.
Thay vào đó, với phương pháp lấy mẫu mới này hoàn toàn chủ động (khi chưa có dịch bệnh tai xanh nổ ra). Mỗi tuần có 3 ngày nhóm nghiên cứu thu thập đuôi và tinh hoàn của 10 ổ heo con mới từ các ô chuồng khác nhau, tiến hành trong 8 tuần liên tục. Heo con được chọn sao cho đại diện cho ô chuồng và lứa đẻ nhất có thể.
Toàn bộ heo con của lứa đẻ cũng đã được kiểm tra và lấy máu để sử dụng làm mẫu đối chứng.
Tinh hoàn và đuôi của các heo con được cho vào túi bóng ziplock (mỗi lứa đẻ 1 túi). Chúng nằm trong túi ít nhất là 2 giờ. Sau đó nhóm nghiên cứu dùng pipet vô trùng lấy chất lỏng trong túi (PF) ra và đặt trong một ống huyết thanh tiệt trùng. Cả mẫu máu và mẫu PF được ly tâm ngay tại trại sau đó bảo quản lạnh đồng thời vận chuyển đến phòng thí nghiệm. Tất cả mẫu được kiểm tra bằng phương pháp RT_PCR để phát hiện sự có mặt của virus PRRS gây bệnh tai xanh.
Kết quả và thảo luận.
Bảng 1 bên dưới là bảng được thiết kế để so sánh tình trạng huyết thanh và dung dịch PF sau khi xét nghiệm.
Bảng 1: tình trạng lứa đẻ (số mẫu âm tính và dương tính với PRRSv)
Tình trạng lứa đẻ (Huyết thanh) | |||
+ | – | ||
Tình trạng lứa đẻ (PF) | + | 20 | 4 |
– | 4 | 49 |
Một lứa đẻ được xem là dương tính nếu có ít nhất 1 con heo con có kết quả kiểm tra huyết thanh dương tính với bệnh tai xanh.
Nhìn vào bảng 1 ở trên chúng ta có thể thấy kết quả kiểm tra huyết thanh trùng khớp với kết quả kiểm tra dung dịch PF. Như vậy, dung dịch PF hoàn toàn có thể sử dụng làm mẫu xét nghiệm để kiểm tra sự có mặt của virus PRRS. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu còn cho biết có thể phục hồi trình tự gen của virus PRRS từ mẫu PF.
Hạn chế duy nhất của nghiên cứu này là toàn bộ mẫu nghiên cứu đều được lấy chỉ từ 1 trang trại. Dĩ nhiên kỹ thuật lấy mẫu mới này chỉ có thể áp dụng ở những nước cho phép thiến và cắt đuôi heo con.
Kết luận
Chất lỏng tiết ra từ đuôi và tinh hoàn heo con thực sự là một mẫu bệnh phẩm có thể dùng để phát hiện sự có mặt của virus PRRS gây bệnh tai xanh trên heo con, thậm chí sau một thời gian bảo quản đáng kể kể từ khi bùng phát dịch bệnh (gần 6 tháng) mẫu vẫn có thể dùng được, đặc biệt là ở các heo mẹ sinh non hay các trường hợp sẩy thai.
Hơn nữa thông qua nghiên cứu này chúng ta cũng nên lưu ý thêm về việc xử lý phần đuôi và tinh hoàn heo con sao cho gọn gàng vì nếu ta không cẩn thận, chúng có thể là tác nhân làm lây lan mầm bệnh tai xanh trong trại.
VietDVM team biên dịch
Nguồn: VietDVM
- dịch bệnh trong chăn nuôi li>
- bệnh tai xanh li> ul>
- Nghiên cứu axit amin chỉ ra tiềm năng cho chế độ ăn ít protein hơn
- Bổ sung sắt uống để phòng ngừa thiếu máu ở heo con sơ sinh
- Rối loạn chất lượng thịt ức ở gà thịt hiện đại
- Vỏ yến mạch đang ngày càng phổ biến trong dinh dưỡng gia cầm
- 6 thành phần giàu chất xơ và lợi ích của chúng đối với người chăn nuôi gia cầm
- Lựa chọn chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gà thịt giống
- 6 điều có thể bạn chưa biết giúp thúc đẩy quá trình tổng hợp protein (tăng cơ bắp) ở heo
- Đất sét trao đổi ion trong thức ăn có thể thể hiện đặc tính kháng sinh
- Nghiên cứu đầu tiên về vi khuẩn nước bọt lợn cho thấy sự biến đổi cao
- Lợi ích và thách thức của urê cấp thức ăn chăn nuôi
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Tham vấn kỹ thuật phân tích chuỗi giá trị và đánh giá rủi ro trong chăn nuôi heo
- Từ 16/12, thuế suất hàng khô dầu đậu tương dùng làm thức ăn chăn nuôi được giảm xuống còn 1%
- Nghiên cứu axit amin chỉ ra tiềm năng cho chế độ ăn ít protein hơn
- Chuyển hướng nuôi bò nhốt chuồng vì hiệu quả cao
- Thị trường nhập khẩu ngô 10 tháng đầu năm 2024
- Giá sản phẩm chăn nuôi (giá tại trại) cả nước ngày 19/11/2024
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất