Công thức thức ăn gia cầm trong bối cảnh không có kháng sinh - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 62.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 60.000 - 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 61.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 63.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Khánh Hòa 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 62.000 đ/kg
    •  
  • Công thức thức ăn gia cầm trong bối cảnh không có kháng sinh

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong ngành chăn nuôi hiện nay, mỗi con vật nuôi có thể được coi là vận động viên Olympic và câu hỏi đặt ra là làm thế nào để giữ cho vật nuôi có năng suất cao, khỏe mạnh. Thức ăn đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe của động vật và trong việc giảm sử dụng kháng sinh.

     

    Việc sử dụng chất kích thích tăng trưởng kháng sinh (AGPs) trong thức ăn chăn nuôi, bị cấm ở EU từ năm 2006, có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả sản xuất. Chủ yếu là hiệu quả sử dụng thức ăn (hệ số chuyển đổi thức ăn hoặc FCR) được cải thiện. Vì AGPs có ít hoặc không có tác dụng ở động vật khỏe mạnh, nên sự hiện diện của hệ vi sinh đường ruột đóng một vai trò quan trọng trong phương thức hoạt động của AGPs.

     

    Vi khuẩn trong đường tiêu hóa (GIT) có những ưu điểm như phát triển hệ thống miễn dịch, bảo vệ chống lại vi khuẩn gây bệnh, cung cấp các hợp chất dinh dưỡng từ quá trình lên men như axit béo dễ bay hơi và kích thích sự bảo vệ của vật chủ. Tuy nhiên, GIT cũng có sự cạnh tranh với vật chủ về các chất dinh dưỡng như protein, có khả năng gây bệnh, khử liên hợp axit mật (điều quan trọng khi nói đến quá trình tiêu hóa chất béo), sản sinh các hợp chất độc hại và cuối cùng, sự kích thích của hệ thống miễn dịch cũng có một cái giá.

     

    Phương thức hoạt động của AGPs

     

    Việc sử dụng AGPs trong thức ăn chăn nuôi làm giảm tổng số vi khuẩn hoặc các loài vi khuẩn trong ruột. Nó làm giảm số lượng vi khuẩn gây bệnh tiềm ẩn, nhưng cũng sản sinh các chất chuyển hóa có hại làm giảm sự phát triển. Hơn nữa, sự cạnh tranh với vật chủ về chất dinh dưỡng và chi phí trao đổi chất của hệ thống miễn dịch cũng giảm. Quan sát cho thấy, với các tác động gián tiếp đã khiến thành ruột mỏng hơn và tổn thất nội sinh thấp hơn.

     

    Trong kỷ nguyên không có kháng sinh, như chúng ta đã có ở EU kể từ lệnh cấm AGPs vào năm 2006, sự phát triển của vi sinh vật trong GIT đã tăng lên khi sử dụng nhiều chất dinh dưỡng hơn (so với giá trị của vật chủ), khử axit mật nhiều hơn và lên men nhiều hơn. Hậu quả là carbohydrate và protein không tiêu hóa được. Hơn nữa, chiều dài nhung mao và lượng thức ăn ăn vào cũng giảm. Do đó, công thức thức ăn gia cầm cần được sửa đổi để chống lại những tác dụng phụ này.

     

    Tiêu hóa chất béo

     

    Axit mật cần thiết cho quá trình nhũ hóa chất béo trong chế độ ăn uống ,trước khi nó có thể được tiêu hóa và hấp thụ. Do vi khuẩn khử liên hợp axit mật, ít chất béo trong chế độ ăn được nhũ hóa, tiêu hóa và hấp thụ, đặc biệt trong trường hợp có nhiều chất béo bão hòa hơn như mỡ động vật và dầu cọ trong chế độ ăn. Dầu dừa và dầu cọ có axit béo ngắn hơn (C12 và C14), hoặc dầu thực vật có nhiều axit béo không bão hòa hơn (C18: 1, C18: 2 và C18: 3), dễ tiêu hóa và hấp thu hơn. Vì vậy, những nguồn chất béo này được ưu tiên trong chế độ ăn gia cầm không chứa AGPs.

     

    Khả năng lên men của các nguồn chất xơ

     

    Nhiều vi sinh hơn trong ruột cũng có nghĩa là quá trình lên men carbohydrate và chất xơ nhiều hơn. Quá trình lên men của các nguồn chất xơ có thể khác nhau. Các nguồn chất xơ trơ như vỏ yến mạch, rơm rạ, cám lúa mì, vỏ gạo và vỏ hướng dương ít lên men hơn các nguồn chất xơ như vỏ đậu nành, cùi cam quýt và bột củ cải đường.

     

    Gia cầm dường như thích chất xơ trơ hoặc không hòa tan hơn, thay vì chất xơ dễ lên men hoặc hòa tan. SFR đã thực hiện một nghiên cứu tại bàn, dựa trên dữ liệu từ các nghiên cứu của Jiménez-Moreno và cộng sự được công bố từ năm 2011 đến năm 2019. Mối tương quan được tìm thấy giữa các thông số ADF trong chế độ ăn, mức tăng trọng lượng cơ thể (BWG) và FCR (Hình 1 và Hình 2). Có thể khuyến nghị tối thiểu 40 g/ kg ADF cho gà thịt, vì sự gia tăng của chất xơ hòa tan trong thức ăn (s_DF) dẫn đến tỷ lệ nước trên thức ăn cao hơn (Hình 3), có thể khuyến nghị tối đa 25 g/ kg s_DF. Cuối cùng, sự gia tăng của chất xơ không hòa tan (i_DF) đã kích thích trọng lượng mề tương đối (Hình 4) và làm giảm độ pH của dạ dày cơ (Hình 5). Từ những quan sát này, có thể khuyến nghị hàm lượng i_DF tối thiểu là 65 g/ kg.

    Hình 1: Mối liên quan giữa ADF trong khẩu phần (g/ kg) và mức tăng trọng lượng cơ thể (BWG) ngày 0-18

    Hình 2: Mối liên quan giữa ADF trong khẩu phần (g/  kg) và hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) ngày 0-18

    Hình 3: Mối liên quan giữa chất xơ hòa tan trong thức ăn (g/ kg) và tỷ lệ nước vào thức ăn (W/ F) ngày 16-18

    Hình 4 : Mối liên quan giữa chất xơ không hòa tan (g/ kg) và trọng lượng tương đối của dạ dày (g/ kg BW)

    Hình 5: Mối quan hệ giữa chất xơ không hòa tan (g/ kg) và pH của dạ dày.

     

    Tiêu hóa protein

     

    Nhiều vi khuẩn hơn trong đường ruột cũng dẫn đến quá trình lên men nhiều hơn của protein không tiêu hóa được và tạo ra các chất chuyển hóa độc hại như amin sinh học và amoniac. Sản xuất chất nhầy trong ruột và thất thoát nội sinh cũng tăng lên. Để chống lại hiện tượng này, chúng ta cần sử dụng các nguồn protein có tỷ lệ tiêu hóa cao hơn để có thể hạ thấp mức protein thô (CP) trong khẩu phần. Do đó, cũng sẽ sử dụng nhiều axit amin tổng hợp hơn. Điều này sẽ giúp giảm sự bài tiết N và tỷ lệ chất độn chuồng ướt. Một nghiên cứu của Belloir et al . (2015) cho thấy, mức CP có thể giảm xuống 17% ở gà thịt từ ngày 21 trở đi mà không ảnh hưởng đến FCR (Hình 6).

    Hình 6 – Mối liên quan giữa CP khẩu phần (%), FCR  ngày 21-35 và ADG (g/ d) ngày 21-35 (Belloir et al., 2015)

     

    Phụ gia thức ăn tiềm năng

     

    Hiện nay có rất nhiều chất phụ gia thức ăn chăn nuôi có thể được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi (như một chất thay thế một phần AGPs), chẳng hạn như chất tạo axit (axit hữu cơ, SCFA, MCFA), axit amin, chất nhũ hóa, enzym, chất kết dính độc tố nấm hoặc chất khử độc, khoáng chất hữu cơ, chiết xuất thực vật, chế phẩm sinh học và prebiotics.

     

    Các điểm cần xem xét

     

    Sáu điểm sau đây có thể được xem xét đối với công thức thức ăn gia cầm trong thời đại không có kháng sinh:

     

    • Giảm độ nhớt của ruột trong chế độ ăn dựa trên lúa mì/ lúa mạch/ yến mạch/ triticale bằng cách sử dụng các enzym phân hủy NSP (xylanase, beta-glucanase,…)
    • Sử dụng các nguồn chất béo tiêu hóa tốt giàu MCFA (dầu dừa hoặc axit béo, dầu hạt cọ hoặc axit béo, dầu côn trùng) hoặc có tỷ lệ U/ S cao (C18: 1 + C18: 2 + C18: 3)/ (C16 : 0 + C18: 0).
    • Sử dụng các nguồn chất xơ trơ và tránh các nguồn chất xơ có thể lên men quá nhiều, bằng cách thực hiện mức ADF tối thiểu hoặc chất xơ không hòa tan và mức tối đa của chất xơ hòa tan trong khẩu phần ăn.
    • Sử dụng ngũ cốc xay thô trước khi đóng viên, hoặc thêm lúa mì nguyên hạt vào viên sau khi đóng viên, để hỗ trợ sự phát triển của dạ dày.
    • Giảm lượng protein khó tiêu hóa và giảm mức protein thô trong khẩu phần ăn, bằng cách sử dụng các nguồn protein tiêu hóa tốt, nhiều axit amin tổng hợp và phytase cũng cải thiện khả năng tiêu hóa axit amin hồi tràng.
    • Sử dụng các chất phụ gia làm chất thay thế tiềm năng cho các AGP có một trong các tác dụng sau:
    • Kháng khuẩn: chẳng hạn như ionophore coccidiostats, MCFAs, nhựa cây thông,…
    • Chống viêm/ chống oxy hóa: chẳng hạn như chiết xuất thực vật, polyphenol, vitamin A/ E/ C,…
    • Hỗ trợ tính toàn vẹn của ruột: chẳng hạn như betaine, axit butyric được phủ/ ester hóa, chất kết dính/ chất khử độc tố nấm mốc.

     

    Tác giả: Walter van Hofstraeten

    Chuyên gia tư vấn cao cấp về dinh dưỡng gia cầm, Nghiên cứu thức ăn chăn nuôi Schothorst

     

    Hiểu Lam (biên dịch)

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.