Luật sửa nhưng vẫn rườm rà: Hiệp hội kiến nghị mạnh mẽ cắt giảm thủ tục không cần thiết - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 67.000 - 72.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Nam 69.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 72.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 73.000 - 74.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 73.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 74.000 đ/kg
    •  
  • Luật sửa nhưng vẫn rườm rà: Hiệp hội kiến nghị mạnh mẽ cắt giảm thủ tục không cần thiết

    [Chăn nuôi Việt Nam] – Ngày 16/4/2025, 7 Hội/Hiệp hội (Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt Nam, Hội Kỹ thuật An toàn thực phẩm, Hiệp hội Gia cầm Việt Nam, Hiệp hội Gia súc lớn Việt Nam,Hiệp hội Sữa Việt Nam, Hiệp hội Phân bón Việt Nam) đã gửi văn bản đến Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, góp ý cho phiên bản cuối của dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (TCQC) và Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (CLSP) do sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng dự thảo, các Hội/Hiệp hội nhận thấy vẫn còn nhiều bất cập cần được xem xét. Cụ thể:

     

    Về công bố hợp quy sản phẩm, hàng hóa

     

    Bãi bỏ thủ tục công bố hợp quy đối với hàng hoá có quy chuẩn (nhóm 2)

     

    Lý do thứ nhất: Chuẩn mực quốc tế về yêu cầu kỹ thuật liên quan đến chất lượng, an toàn sản phẩm hàng hoá (Hiệp định TBT, Hiệp định SPS của WTO…) quy định các nước được quyền đưa ra các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật của sản phẩm, hàng hóa để tổ chức, cá nhân tham chiếu áp dụng trong sản xuất, kinh doanh (SXKD) sản phẩm hàng hoá và để nhà nước làm căn cứ kiểm tra.

     

    Không có quốc gia nào quy định người SXKD phải công bố hợp quy (HQ) trước khi đưa hàng hoá ra thị trường như Việt Nam. Họ chỉ yêu cầu sản phẩm, hàng hóa phải công bố (thông báo) tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật áp dụng và phải đăng ký lưu hành đối với các sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp, nghiêm trọng đến sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng, môi trường như thuốc chữa bệnh, thuốc thú y, thuốc BVTV…

     

    Việc quy định công bố HQ sản phẩm hàng hóa trong Luật TCQC và Luật CLSP là không có ý nghĩa trong quản lý, chồng chéo, phát sinh thủ tục hành chính, chi phí, thời gian của doanh nghiệp. Ví dụ: Mặt hàng ngô hạt dùng làm thức ăn chăn nuôi, người SXKD phải công bố chất lượng, an toàn sản phẩm hàng hóa như sau:

     

    + Độ ẩm ≤ 14%; Đạm thô≥ 10% (tiêu chuẩn chất lượng áp dụng của sản phẩm, do người SXKD lựa chọn phù hợp với thị trường và khả năng sản xuất của họ);

     

    + Độc tố nấm mốc Aflatoxin B1 $30 ug/kg (yêu cầu về an toàn của sản phẩm, theo quy định tại QCVN 01:190:2020/BNNPTNT).

     

    Như vậy là sản phẩm ngô hạt nêu trên, đã đủ điều kiện SXKD theo “Giấy đăng ký khai sinh sản phẩm lần thứ nhất”. Người tiêu dùng đã có căn cứ để lựa chọn trong mua bán và cơ quan nhà nước có căn cứ kiểm tra, xử lý.

     

    Nếu theo quy định của Luật TCQC và Luật CLSP hiện hành và sửa đổi, thì người SXKD, trước khi đưa sản phẩm ngô hạt nêu trên vào SXKD, lại phải làm thêm thủ tục công bố HQ sản phẩm ngô hạt một lần nữa. Quy định này vừa phát sinh thêm thủ tục hành chính, gây tốn kém chi phí thử nghiệm, thời gian chờ đợi và không có ý nghĩa gì trong công tác quản lý, vì việc lấy mẫu công bố HQ chỉ có gía trị đại diện cho một lô sản phẩm, không lấy gì để đảm bảo cho các lô hàng hóa sản xuất sau là phù hợp với chất lượng và quỷ chuẩn kỹ thuật công bố. Nên bắt buộc nhà nước phải tăng cường công tác hậu kiểm.

     

    Lý do thứ hai: Nếu Việt Nam vẫn quy định công bố HQ (nghĩa là 100% hàng hóa nhập khẩu phải thực hiện tiền kiểm chất lượng) thì các đối tác quốc tế sẽ phản bác, cho cho rằng Việt Nam đang tạo ra hàng rào phi thuế quan để cản trở thương mại.

     

    Lý do thứ ba: Các cơ quan quản lý nhà nước chủ yếu tập trung vào kiểm soát thủ tục công bố HQ và lơ là các biện pháp hậu kiểm; còn người tiêu dùng lại bị đánh lừa, bởi các chiêu bài quảng cáo là “chất lượng và an toàn sản phẩm đã được công nhận bởi cơ quan quản lý nhà nước (bài học của vụ sữa giả, kém chất lượng vừa qua là điển hình của việc lơ là hoặc đại khái trong hậu kiểm).

     

    Đề nghị không phân loại sản phẩm, hàng hóa theo nhóm 1 và 2

     

    Nên phân loại sản phẩm hàng hóa theo mức độ rủi ro như thông lệ quốc tế

     

    Lý do thứ nhất: Trên thế giới, các nước không phân loại hàng hoá theo nhóm 1, 2 như Việt Nam, mà phân loại hàng hoá theo 3 cấp độ rủi ro: thấp/trung bình/cao theo hướng dẫn chuẩn mực quốc tế ISO. Việc phân loại rủi ro để người SXKD xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, an toàn trong quá trình SXKD phù hợp và để cơ quan nhà nước xác định tần xuất hậu kiểm.

     

    Lý do thứ 2: Khái niệm mặt hàng nhóm 2 trong Luật hiện hành đã quá rộng, nay trong Dự thảo còn rộng hơn, rất dễ bị lạm dụng:

     

    + Trong Dự thảo Luật CLSP sửa đổi, khái niệm mặt hàng nhóm 2 được cơ quan soạn thảo thay đổi liên tục qua các phiên bản và đến phiên bản 9 đưa ra tại hội thảo 5 ngày 14/4/2025 do UBKHCN Quốc hội tổ chức, vẫn còn rất bung lung: “Là sản phẩm, hàng hóa có rủi ro gây mất an toàn; đồng thời trong quá trình vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa bảo đảm hợp lý, đúng mục đích nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường”.

     

    Rõ ràng quy định mở như Luật CLSP hiện hành, đã làm cho danh mục hàng hóa nhóm 2 của Việt Nam quá nhiều. Theo báo cáo của Ủy ban Tiêu chuẩn, đo lường là Việt Nam đang có khoảng 400 loại mặt hàng nhóm 2 (thực tế còn nhiều hơn, vì 100% các loại vật tư nông nghiệp đều là nhóm 2) và nếu theo khái niệm mới trong Dự thảo, thì nhóm 2 còn tăng hơn nhiều nữa, vì giới hạn của quy định “rủi ro, gây hại” thấp hơn nhiều “ trực tiếp, nguy hiểm”, quy định thế này là căn nguyên cho các Bộ, ngành lạm dụng.

     

    Phương thức quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa

     

    Cách thức tiếp cận quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm của Luật hiện hành và Dự thảo, vẫn thiên về tiền kiểm, chưa coi trọng hậu kiểm và quá đề cao vai trò của nhà nước mà xem nhẹ vai trò của doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng, cụ thể:

     

    Nội dung của Luật CLSP còn thiếu các thiết kế của chương trình hậu kiểm phù hợp với từng nhóm sản phẩm, hàng hóa chia theo mức độ rủi ro (thấp, TB, cao) trong hệ thống chất lượng quốc tế và các nước phát triển áp dụng, như ISO, GMP, HACCP…

     

    Quy định cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là cơ quan quản lý nhà nước thuộc bộ ngành và địa phương là không phù hợp với chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công. Đề nghị quy định là “Cơ quan chức năng được nhà nước giao nhiệm vụ”.

     

    Tổ chức thử nghiệm kiểm chứng (Dự thảo 8 là thử ngiệm trọng tài), quy định là tổ chức của nhà nước, là không phù hợp: vì hoạt động thử nghiệm đã được xã hội hóa, nhiều phòng thử nghiệm của tư nhân vừa hiện đại, vừa có tay nghề thành thạo hơn nhiều so với khu vực nhà nước, do họ liên tục đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị và thực hành nhiều hơn (bài học của Chương trình phòng thí nghiệm trọng điểm, có nhiều phòng thí nghiệm của các viện, trường đầu tư, nhưng không khai thác được).

     

    Chuyển các quy định về hộ chiếu số, mã điện tử, mã vạch… sang nội dung chính sách khuyến khích áp dụng, thay vì bắt buộc áp dụng như trong Dự thảo. Lý do: yêu cầu về minh bạch thông tin trên nhãn và truy xuất được nguồn gốc sản phẩm “một bước trước, một bước sau” theo tiêu chuẩn quốc tế không bắt buộc phải sử dụng công cụ nào.

     

    Cộng đồng doanh nghiệp và các Hội/Hiệp hội ngành hàng kính đề nghị Bộ trưởng chỉ đạo cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến của các Hội/Hiệp hội và chuyên gia, nhằm hoàn thiện việc sửa đổi Luật TCQC và Luật CLSP phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập.

     

     

    P.V (tổng hợp)

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.