Hiện trạng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi lợn tại các trại quy mô lớn ở khu vực Đông Nam Bộ - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Hiện trạng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi lợn tại các trại quy mô lớn ở khu vực Đông Nam Bộ

     

    ĐẶT VẤN ĐỀ

     

    Hiện nay, kháng sinh được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi với mục đích điều trị, phòng bệnh và kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, việc sử dụng không hợp lý dẫn đến kháng kháng sinh, tồn dư trong thực phẩm và ô nhiễm môi trường. Vi khuẩn nhanh chóng phát triển khả năng đề kháng, làm giảm hiệu quả điều trị, thậm chí gây tử vong. Khoảng 73% kháng sinh toàn cầu dùng trong chăn nuôi, là nguyên nhân chính thúc đẩy kháng thuốc và gây thiệt hại kinh tế, sức khỏe cộng đồng.

     

    Việt Nam đã ban hành nhiều quy định quản lý sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi, nhưng lạm dụng vẫn phổ biến, đặc biệt với các nhóm kháng sinh quan trọng như beta-lactam, tetracycline và polymyxin. Một số khu vực còn dùng kháng sinh cấm như chloramphenicol. Các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào lạm dụng trong điều trị, còn tình trạng lạm dụng trong phòng bệnh tại trang trại quy mô lớn chưa được quan tâm đầy đủ.

     

    VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

     

    Đối tượng, địa điểm và thời gian

     

    Khảo sát các trại chăn nuôi lợn quy mô lớn được thực hiện tại 5 tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ từ tháng 7 đến tháng 11/2024.

     

    Phương pháp

     

    Cách tiếp cận Sử dụng số liệu điều tra hồi cứu: Từ những số liệu ghi chép về nguồn gốc nhập và nhóm các loại thuốc kháng sinh được sử dụng trong chăn nuôi lợn tại 5 tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ để ước tính số lượng trang trại chăn nuôi (cỡ mẫu) được điều tra phỏng vấn trực tiếp. Thu thập thông tin qua điều tra phỏng vấn trực tiếp hoặc gián tiếp bằng bộ câu hỏi khảo sát đại diện các trại chăn nuôi lợn quy mô lớn (TCNLQML).

     

    Chọn mẫu và khảo sát thực địa

     

    Thực hiện điều tra phỏng vấn trực tiếp hoặc gửi đường link truy cập bộ câu hỏi khảo sát cho người đại diện tại các TCNLQML. Bộ câu hỏi được thiết kế đầy đủ các thông tin cần thu thập và các câu hỏi này đã được mã hóa để thuận tiện cho việc xử lý thông tin báo cáo.

     

    Dựa vào thống kê tổng đàn lợn của các trại để quy đổi ra hệ số đơn vị vật nuôi, nhằm xác định quy mô chăn nuôi (Luật Chăn nuôi, 2013). Chọn ngẫu nhiên 57 trại chăn nuôi lợn phù hợp (n=57) để tiến hành khảo sát trên địa bàn 5 tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ (Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh).

     

    Nguồn gốc nhập kháng sinh trong TCNLQML: Gồm nguồn cung cấp kháng sinh (cơ sở buôn bán thuốc thú y, nhân viên tiếp thị, nhà máy sản xuất thức ăn, bác sĩ thú y); mục đích mua kháng sinh và tần số mua kháng sinh.

     

    Sử dụng nhóm kháng sinh: Tỷ lệ phần trăm sử dụng từng loại kháng sinh cho từng mục đích (Phòng bệnh, điều trị dự phòng và điều trị).

     

    Đánh giá thái độ của người sử dụng kháng sinh: Theo thang đánh giá 5 mức: rất quan tâm thực thi (QTTT), QTTT, QTTT một phần, không QTTT và rất không QTTT.

     

    Cách bảo quản kháng sinh trong TCNLQML: Việc có khu vực bảo quản thuốc thú y riêng; việc xử lý trong trường hợp thuốc kháng sinh hết hạn hay không đảm bảo chất lượng.

     

    Giải pháp thay thế kháng sinh đang áp dụng: Chất chiết xuất thực vật, axit hữu cơ, probiotic, prebiotic, sản phẩm kháng thể tổng hợp…

     

    Xử lý số liệu

     

    Số liệu được xử lý bằng Minitab 16.2 theo nghiên cứu cắt ngang. Các giá trị trung bình (trình bày dưới dạng Mean ± SD) được so sánh bằng ANOVA và trắc nghiệm Tukey, với các giá trị định tính bằng x2 hoặc Fisher với P<0,05.

     

    KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

     

    Nguồn gốc kháng sinh

     

    Quyết định mua kháng sinh từ cơ sở sản xuất TĂCN (Công ty TÃCN hay cơ sở sản xuất TĂCN) chiếm tỷ lệ cao nhất (33%), dựa theo đơn hàng kí kết và yêu cầu từ phía cơ sở chăn nuôi, cơ sở sản xuất TĂCN sẽ phối trộn kháng sinh sử dụng với mục đích phòng bệnh vào thức ăn) ở TCNLQML, kế đến từ cơ sở buôn bán thuốc thú y (cửa hàng thuốc thú y hay CSBBTTY) (23%), từ bác sĩ thú y/kỹ thuật trại (20%), từ nhân viên tiếp thị (NVTT) thuốc hoặc TĂCN khi họ đến trại (17%) và từ lý do khác (7%) (Hình 1; P<0,001).

     

    Trong nhóm CSBBTTY, mua kháng sinh theo kế hoạch phòng bệnh của trại chiếm tỷ lệ cao nhất (35%), kế đến khi trại có lợn bệnh (31%) và thấp nhất khi tiện thể ra ngoài trại (8%). Việc mua kháng sinh từ NVTT bởi giá thành sản phẩm cạnh tranh chiếm tỷ lệ thấp nhất (8%) và ngược lại do nguy cơ dịch bệnh bùng phát chiếm tỷ lệ cao nhất (37%).

     

    Hình 1. Nguồn gốc kháng sinh sử dụng trong trại

     

    Nhóm kháng sinh

     

    Trong số 18 nhóm kháng sinh được khảo sát, Tetracylines, Quinolones, Aminoglycosides, Marclolides và Ketolides chiểm tỷ lệ cao (>70%) so với các nhóm kháng sinh Fosfomycin, Ansamycins và Cyclicpolypeptides chiếm tỷ lệ thấp (<30%) (Hình 2; P<0,01).

     

    NhómTetracycline được sử dụng rộng rãi vì khả năng điều trị hiệu quả với bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa và hô hấp, có vai trò quan trọng trong phòng bệnh cho vật nuôi ở các TCNLQML (Harday, 2002); giá thành thấp, phổ kháng khuẩn rộng và dễ trộn vào thức ăn/nước uống của vật nuôi (Nisha, 2008).

     

    Trong khi đó, nhóm Quinolones được ưu tiên sử dụng ở các trường hợp nhiễm trùng nặng nhờ khả năng diệt khuẩn mạnh, đặc biệt khi vi khuẩn kháng với các loại thuốc khác. Aminoglycoside là một nhóm kháng sinh được áp dụng phổ biến để điều trị các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm.

    Nhóm Quinolones và Aminoglycosides sử dụng phổ biến để điều trị dự phòng và điều trị bệnh vì có hiệu quả cao trong việc kiểm soát các bệnh nguy hiểm hoặc nghi ngờ sẽ phát bệnh nặng. Mặc dù Tetracycline, Quinolones và Aminoglycoside, Marclolides và Ketolides được sử dụng phổ biến, nhưng điều này cũng đặt mối lo ngại lớn về nguy cơ đề kháng kháng sinh.

     

    Theo báo cáo của WHO (2015), việc sử dụng kháng sinh tỷ lệ cao cho mục đích phòng bệnh có thể dẫn đến dư lượng sinh vật kháng kháng sinh trong thực phẩm và góp phần làm tăng vi khuẩn kháng thuốc. Điều đặc biệt nguy hiểm này đối với các nhóm kháng sinh như Marclolides và Ketolides được xếp vào nhóm kháng sinh đặc biệt quan trọng, hay Tetracycline và Quinolones vốn được xếp vào nhóm rất quan trọng trong “Danh mục các hoạt chất thuốc thú y thuộc nhóm kháng sinh đặc biệt quan trọng, rất quan trọng và quan trọng” (quy định tại Thông tư số 12/2020/TT-BNNPTNT). Hậu quả là giảm hiệu quả của các loại kháng sinh này khi được sử dụng để điều trị bệnh ở người, gây ra gánh nặng đối với vấn đề một sức khỏe.

     

    Mặc dù, Tetracycline, Quinolones, Aminoglycoside, Marclolides và Ketolides được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi, nhưng Fosfomycin, Ansamycins và Cyclicpolypeptide cũng đóng vai trò quan trọng trong điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn đặc thù. Fosfomycin được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn vi khuẩn Gram âm và Gram dương gây ra, đặc biệt hiệu quả với nhiễm trùng đường tiết niệu và viêm phối (Popovic và ctv, 2010) nhưng chi phí cao và nguy cơ tạo thuốc kháng thuốc. Đồng thời, đây là một nhóm kháng sinh quan trọng trong y tế, cần được kiểm soát chặt chẽ để hạn chế việc sử dụng (WHO, 2015).

     

    Tương tự, nhóm Ansamycins bao gồm rifamycin sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đặc thù như bệnh lao và nhiễm trùng Mycobacteria (Floss và Yu, 2005) nhưng thực tế ít được sử dụng vì không phù hợp với các bệnh phổ biến ở vật nuôi, có nguy cơ gây ra tình trạng kháng thuốc. Cyclicpolypeptide (đại diện là colistin) là nhóm kháng sinh quan trọng trong điều trị các bệnh nhiễm trùng vi khuẩn Gram âm đa kháng thuốc như E. coli hoặc Klebsiella pneumoniae (Falagas và Kasiakou, 2005), nhưng chỉ được xem là „giải pháp cuối” trong y tế và đã bị hạn chế hoặc cấm ở nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam, theo quy định của Thông tư số 12/2020/ TT-BNNPTNT.

     

    Hình 2. Tỷ lệ các nhóm kháng sinh được sử dụng theo mục đích (n=57)

     

    Đánh giá thái độ người sử dụng kháng sinh

     

    Sự khác biệt có ý nghĩa về thái độ người sử dụng kháng sinh trong trại chăn nuôi lợn (P<0,05; Hình 3). Cụ thể, tỷ lệ người chăn nuôi có thái độ quan tâm thực thi (QTTT) và rất QTTT sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi lần lượt là 49 và 14% thông qua thái độ đồng tình với các giải pháp quản lý và sử dụng kháng sinh hợp lý; nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng kháng sinh đúng cách nhằm bảo vệ sức khỏe vật nuôi, giảm thiểu nguy cơ kháng kháng sinh và hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường. Tuy nhiên, 13% nhà chăn nuôi là không/rất không QTTT và 25% nhà chăn nuôi lại có thái độ thờ ơ/không quan tâm đầy đủ (QTTT một phần) đến việc tuân thủ các quy định về quản lý kháng sinh. Nguyên nhân có thể bắt nguồn từ việc thiếu kiến thức về tác hại của kháng sinh, hạn chế về tài chính và nguồn lực kỹ thuật, hoặc thiếu giám sát và hỗ trợ từ cơ quan chức năng. Hậu quả là việc sử dụng kháng sinh không đúng cách, trộn kháng sinh vào thức ăn mà không theo chỉ dẫn, dẫn đến dư lượng phản sinh trong sản phẩm chăn nuôi, gia tăng vi khuẩn đề kháng kháng sinh và gây ảnh hưởng cho sức khỏe người tiêu dùng thực phẩm này.

     

    Để giải quyết vấn đề này, cần tăng cường tuyên truyền và đào tạo nâng cao nhận thức của người chăn nuôi về việc sử dụng kháng sinh an toàn và hiệu quả. Đồng thời, cần áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ và thực thi nghiêm ngặt để ngăn chặn tình trạng lạm dụng kháng sinh.

     

    Ghi chú: Các giá trị TL ở mỗi chỉ tiêu có các chữ cái khác nhau chỉ sự khác biệt rất có ý nghĩa (P<0,05).

     

     

    Bảo quản kháng sinh

     

    Bảng 1, cung cấp cái nhìn toàn diện về thực hiện bảo quản và xử lý kháng sinh tại các trại chăn nuôi lợn quy mô lớn, với các tiêu chí như kho bảo quản thuốc thú y, cách xử lý thuốc thú y không sử dụng hết trong ngày và xử lý thuốc thú y có dấu hiệu hết hạn hoặc lọ đựng bị nứt. Phần lớn các trại, đặc biệt là trại công ty (97,1%; P<0,01) đã có khu vực bảo quản thuốc thúy riêng, phản ánh ý thức cao trong công việc bảo đảm chất lượng thuốc. Tuy nhiên, có một số trại tư nhân và công ty chưa có khu vực bảo quản chuyên nghiệp, làm tăng nguy cơ hư hỏng thuốc và giảm hiệu quả sử dụng.

     

    Về cách xử lý thuốc thú y không được sử dụng hết trong ngày, nhiều lựa chọn nhập lại về kho thuốc hoặc tái sử dụng, nhưng một số trường hợp sử dụng kháng sinh không đúng cách có thể dẫn đến lây lan chéo hoặc lan truyền dư lượng kháng sinh giữa các loài vật nuôi. Đặc biệt, việc xử lý thuốc kháng sinh hết hạn hoặc không đảm bảo chất lượng còn nhiều bất cập, với tỷlệ thuốc hết hạn ở các trại tư nhân bị bỏ vào thùng rác (71,4%; P<0,05) hoặc tiếp tục được sử dụng (14,3- 33,3%), vi phạm nghiêm trọng các quy định về quản lý thuốc thú y. Những hành vi này không chỉ làm giảm hiệu quả điều trị mà còn gây tồn dư kháng sinh trong thực phẩm và gia tăng nguy cơ kháng kháng sinh, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng và môi trường.

     

    Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dư lượng kháng sinh từ thuốc không đảm bảo chất lượng thải vào môi trường qua nước tiểu và phân của vật nuôi có thể gây ô nhiễm môi trường đất, nước, và thúc đẩy sự phát triển của các loại thuốc kháng sinh trong tự nhiên (Kümmerer, 2009). Do đó, cần đẩy mạnh đào tạo và nâng cao nhận thức cho người chăn nuôi, đặc biệt là ở trại tư nhân, về tầm quan trọng của bảo quản và xử lý thuốc thú y nói chung và kháng sinh nói riêng đúng cách.

     

    Giải pháp thay thế kháng sinh

     

    Có sự khác biệt đáng kế liên quan đến việc áp dụng các giải pháp thay thế kháng sinh ở các loại hình trại chăn nuôi lợn (P<0,05; Hình 4). Cụ thể, probiotic và prebiotic được sử dụng phố biến nhất (32,3%), vì giúp cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột, tăng cường miễn dịch tự nhiên, giảm nguy cơ bệnh và hạn chế sự phụ thuộc vào kháng sinh (Gadde và ctv, 2017). Bổ sung axit hữu cơ là ưu tiên được lựa chọn nhiều thứ hai (19,4%) bởi tính dễ áp dụng và phù hợp với nhiều điều kiện trang trại chăn nuôi, trong khi các giải pháp bố sung enzyme, chất chiết xuất thực vật và sản phẩm kháng thể tổng hợp chiếm tỷ lệ thấp nhất (16,1%). Chất chiết xuất thực vật đang được nghiên cứu và ứng dụng trong nhân y và thú y (Viegi và ctv, 2003). Những nghiên cứu đã chứng minh bổ sung chất chiết xuất thực vật trong khẩu phần thức ăn của vật nuôi cải thiện khả năng tiêu hoá và kháng khuẩn (Windisch và ctv, 2008) nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.

     

     

    KẾT LUẬN

     

    Quyết định mua kháng sinh từ CSSXTACN chiềm tỷ lệ cao nhất ở TCNLQML. Nhóm kháng sinh Tetracylines, Quinolones, Aminoglycosides, Marclolides và Ketolides cho các mục đích phòng bệnh, điều trị dự phòng và điều trị bệnh được sử dụng phổ biến trong các TCNLQML. Bên cạnh đó, thái độ QTTT “sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi” của người chăn nuôi và tổng tỷ lệ người QTTT một phần và không QTTT/rất không QTTT cũng chiếm tỷ lệ xấp xỉ nhau. Các QTTT khảo sát phần lớn đều xây dựng kho bảo quản thuốc thú y. Probiotic và Prebiotic được ưu tiên sử dụng như giải pháp thay thế kháng sinh ở TCNLQML.

     

    Nguyễn Nữ Mai Thơ, Nguyễn Hồng Minh Anh, Đỗ Tấn Dương, Trương Đình Bảo, Nguyễn Thanh Hải, Đặng Thị Ngọc Anh

    Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Quang Ngọc
  • Cho em xin tài liệu ạ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.