Một công cụ di truyền khác giúp cải thiện kích thước lứa đẻ - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 67.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Trà Vinh 63.000 đ/kg
    •  
  • Một công cụ di truyền khác giúp cải thiện kích thước lứa đẻ

    Kích thước lứa đẻ là yếu tố rất quan trọng quyết định khả năng sinh lời của heo nái.

    Một công cụ di truyền khác giúp cải thiện kích thước lứa đẻ

    Ảnh minh họa

     

    Một hạn chế lớn đối với việc tăng kích thước lứa đẻ là mất phôi xảy ra trong tuần thứ 2 đến tuần thứ 3 của thai kỳ (Geisert và Schmitt, 2002, J Anim Sci. 80, E54-E65).

     

    Nhiều yếu tố có thể góp phần vào sự mất mát này và một nguyên nhân có thể gây tử vong phôi sớm có thể là sự tồn tại của một số alen có hại (các dạng gen khác nhau) cho các gen thiết yếu dẫn đến tử vong thai nhi ngay sau khi heo nái mang thai. Tần suất của các alen có hại này có thể giảm trong một quần thể sau khi lựa chọn dài hạn cho kích thước lứa đẻ lớn, chẳng hạn như trong các dòng mẹ. Tuy nhiên, trong các giống chưa được chọn để tăng kích cỡ lứa đẻ (eg.Duroc), các alen có hại này có thể bị bỏ qua (hoặc ẩn) và ở tần suất cao hơn so với các quần thể được chọn.

     

    Thông thường những alen gây hại này khiến thai nhi chết khi chúng có mặt ở trạng thái đồng hợp tử (gọi là gen lặn, một bản sao có hại từ mỗi bố mẹ, ví dụ aa). Khi chúng có mặt trong trạng thái dị hợp tử (các alen được thừa kế từ bố và mẹ là giống khác nhau, chẳng hạn như Aa), cá thể sống sót và có kiểu hình bình thường. Động vật dị hợp tử này, được gọi là chất mang rất khó xác định và do đó có thể tiếp tục lan truyền các alen có hại trong quần thể.

     

    Công nghệ gen bây giờ cung cấp một cách tiếp cận hiện đại để phát hiện các alen có hại đó được cho là tương đối phổ biến trong một quần thể không được chọn nhưng không bao giờ xuất hiện ở trạng thái đồng hợp tử lặn ở động vật sống. Cách tiếp cận này chỉ yêu cầu dữ liệu kiểu gen trên kiểu hình bình thường (tức là ở con sống) để phát hiện các alen có hại thông qua phân tích thống kê. Cách tiếp cận này ban đầu được sử dụng trong bò sữa và phát hiện alen liên quan đến dị tật sinh sản (VanRaden et al., 2011, J Dairy Sci. 94, 6153-6161). Nhiều nghiên cứu gần đây đã bắt đầu tìm kiếm ở heo và tìm thấy một số alen liên quan đến những lứa đẻ ít hơn và nhiều heo con chết khi sinh ra hơn trong dòng mẹ và các dòng thương phẩm (Häggman và Uimari, 2017, J Anim Breed Genet. 134, 129-135; Howard et al ., 2017, GSE 49, 57; Derks và cộng sự, 2017, BMC Genomics. 18, 858).

     

    Trong cơ sở dữ liệu gen Genesus, chúng tôi có hàng ngàn con heo với dữ liệu kiểu gen thông tin (60K, 80K, 650K và chuỗi rộng) cho phép chúng tôi tìm kiếm những alen có hại có liên quan đến kích thước lứa đẻ và tiếp tục ước tính ảnh hưởng của chúng lên khả năng sinh sản của heo, tập hợp lớn các kiểu hình. Nỗ lực ban đầu của chúng tôi tập trung vào heo đực Duroc sử dụng kiểu gen SNP 650K. Một số khu vực của bộ gen đã được tìm thấy có khả năng chứa alen có hại. Ví dụ, đối với SNP quan trọng nhất, chúng tôi dự đoán rằng cần có 45 đồng hợp tử lặn (aa) nhưng không ai quan sát thấy. Khu vực chứa SNP này có liên quan đáng kể với nhiều phôi chết khô(P <0,001).

     

    So với các báo cáo trước đây ở heo (xem ở trên), các vùng gen được xác định  trên một só  giống hoặc  đàn cụ thể, mặc dù chúng tôi đã thấy một vài khu vực có thể trùng lặp với những phát hiện trước đó. Những phát hiện này cung cấp thông tin có giá trị để có khả năng tăng kích thước lứa đẻ trong quần thể Genesus Duroc. Điều này sẽ dẫn đến không chỉ nhiều heo được sản xuất mà còn tăng cường cải thiện di truyền thông qua cường độ chọn lọc cao hơn. Các phương pháp tiếp cận để giảm tần suất của các alen có hại này bao gồm việc lựa chọn bộ gen và các kế hoạch giao phối dựa trên bộ gen sử dụng chip SNP tùy chỉnh Genesus.

     

    Việc thực hiện các kết quả nghiên cứu như vậy sẽ góp phần đáng kể vào mục tiêu về tăng giá trị và lợi nhuận cho khách hàng Genesus.

     

    Nguồn: Tiến sĩ Chunyan Zhang, Phd, Genetician Genesus Inc.

    [email protected]

    Tiến sĩ Chunyan Zhang là nhà di truyền học của Genesus Inc.

     

    Chunyan có bằng Cử nhân và Tiến sĩ tại Đại học Nông nghiệp Huazhong ở Trung Quốc. Cô được trao tặng học bổng sau tiến sĩ Mitacs Elevate Postdoctoral tại Đại học Alberta từ năm 2014 đến năm 2016. Cô đã xuất bản hơn 20 bài báo trong các tạp chí khoa học được đánh giá ngang hàng.

     

    Kể từ khi nhận được bằng tiến sĩ vào năm 2010, Chunyan đã làm việc trong chương trình của Tiến sĩ Graham Plastow tại Livestock Gentec, Đại học Alberta với tư cách là một nghiên cứu sinh sau tiến sĩ và gần đây nhất là một nhà nghiên cứu.

     

    Cô đã tích cực tham gia vào một số dự án  nghiên cứu và phát triển tập trung vào các phương pháp di truyền và di truyền để cải thiện các tính trạng quan trọng về kinh tế trong sản xuất thịt heo. Cô đã cộng tác với các công ty di truyền heo  trong việc thực hiện các dự án theo hướng công nghiệp.

     

    Trong vai trò mới của mình, Chunyan sẽ phát triển và thực hiện các dự án R & D được tài trợ bên ngoài và bên ngoài tập trung vào việc tăng cường cải thiện di truyền heo  thông qua việc kết hợp các công nghệ gen. Là một thành viên của nhóm chương trình di truyền Genesus, cô sẽ cộng tác với các thành viên khác trong nhóm và nhân viên đại học về các dự án R & D và các dịch vụ kỹ thuật. Ngoài ra, cô sẽ cung cấp sự giám sát và hỗ trợ trực tiếp cho các đàn heo Genesus ở Trung Quốc và châu Á cũng như hỗ trợ kỹ thuật cho nhóm bán hàng Genesus ở Trung Quốc và châu Á.

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.