Một số tiến bộ mới trong ngành chăn nuôi gia cầm - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Một số tiến bộ mới trong ngành chăn nuôi gia cầm

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] –Theo ý kiến của các nhà khoa học chăn nuôi gia cầm, các tiến bộ đạt được trong ngành hàng này tập trung ở 3 lĩnh vực: Giống và chọn giống, chiếm 70%, quy trình công nghệ chăn nuôi 20% và dinh dưỡng thức ăn 10%. Điều đó giúp chúng ta định hướng ngành chăn nuôi gia cầm một cách chính xác hơn.

     

    1 Tiến bộ trong phân biệt giới tính trước khi nở

     

    Tháng 6/2016, Công ty In-Ovo – Hà Lan tuyên bố năm 2018 bán máy xác định giới tính phôi gà ngay từ lúc ấp 9 ngày với độ chính xác 95%. Máy này sẽ giải thoát cho hơn 45 triệu gà giống 1 ngày tuổi bị giết ở Hà Lan; 3,2 tỷ gà trống mỗi năm trên toàn thế giới. Phát hiện này đã mang lại lợi ích trước hết cho môi trường: lượng trứng nở ra ít hơn tiêu thụ năng lượng ít hơn thải ít C02 ra môi trường. Giảm chi phí ấp, 9 ngày kiểm tra giới tính loại bớt phôi đực giảm chi phí ấp nở. Nhờ kỹ thuật này, các trại gia cầm giống nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình hơn rất nhiều. Ở Đức, mỗi tháng người ta đã phải chi 3,04 triệu Euro (74,4 tỷ VNĐ) cho việc phân biệt giới tính gà 1 ngày tuổi.

     

    Gerald Steiner đã sử dụng tia laser để cắt một lỗ tròn ở đầu trứng. Sau đó dùng phương pháp tiếp cận tia hồng ngoại quang phổ để xác định giới tính của phôi dựa trên dung lượng AND của trống cao hơn khoảng 2% so với gà mái. Nếu phôi đó được xác định là gà mái, vỏ trứng sẽ được vá lại và đưa vào lò ấp. Dự kiến, trong năm tới sẽ cho ra mắt máy đầu tiên. Độ chính xác 95% trong vòng chưa đầy 1 phút.

     

    Ở Canada có thể phát hiện chính xác 95% với tốc độ 3.000-5.000 trứng/1 giờ và chi phí 5 pence/1 quả (tương đương 1.620 đồng/quả).

    Trứng được mở nắp để chuẩn bị phân tích quang phổ kế (bên phải). Sau đó, khi xác định được giới tính thì được vá lại.

     

    2 Tiến bộ về dinh dưỡng, thức ăn

     

    Hiện nay, nuôi gà thịt trung bình theo công thức hay tổ hợp “2:2:42”  nghĩa là để gà đạt được khối lượng 2kg, với FCR=2kg thức ăn/kg tăng trọng, nuôi trong 42 ngày.

     

    Đến năm 2020, cùng với những tiến bộ di truyền, quản lý, dinh dưỡng thức ăn tối ưu sẽ tiến đến tới công thức “2:1:42” (gà đạt khối lượng 2kg, với FCR=1kg thức ăn/kg tăng trọng, nuôi trong 42 ngày.

     

    Với thành tựu đó sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu cho hơn 8 tỷ người vào năm 2025 nhưng sẽ sử dụng ít hơn 30% ngũ cốc để sản xuất 100 tỷ tấn gà thịt và gia cầm và các sản phẩm từ thịt gia cầm có giá thấp hơn.

    FCR=1kg thức ăn/kg tăng trọng ở gà thịt đã được tạo ra lần đầu tiên từ năm 2005 (Foulds, J, 2005) cho rằng, để giảm FCR cần tác động đảm bảo 5 vấn đề kỹ thuật như sau: 1. Tính toàn vẹn ruột: Sử dụng probiotic sinh học của lactobacillus;  2. Thức ăn, chất lượng nước và an ninh sinh học: nhất là nấm men, mốc; 3. Giá trị dinh dưỡng của nguyên liệu thức ăn chính xác; 4. Bổ sung enzyme nâng cao hiệu quả tiêu hóa. 5. Kiểm soát tốt bệnh cầu trùng.

     

    Và cuối cùng là nuôi phôi sớm và chương trình lập trình gene, cụ thể cho ăn bằng ovo: bổ sung các chất dinh dưỡng có khả năng có khả năng tiêu hóa cao vào màng phôi có thể cải thiện chất lượng con gà, tăng lượng glycogen, tăng cường sự phát triển của ruột, sức khỏe xương cao, tăng trưởng cơ, tăng cân, cải thiện chuyển đổi thức ăn và tăng cường chức năng miễn dịch. Người ta đã xác định 24 giờ nở đầu tiên, ruột non, gan và tụy phát triển nhanh hơn so với trọng lượng cơ thể. Gà cần được cho ăn càng sớm càng tốt để cung cấp nhiều hơn cho sự phát triển của hệ dạ dày-ruột, tăng cân và phát triển hệ miễn dịch.

     

    Thành phần chất lượng cao, oligosaccharides, các chất giàu nucleotide, các chất hấp thụ chất độc mycotoxin và khoáng chất hữu cơ có thể tạo ra những thay đổi đáng kể về FCR. Hàm lượng CP (protein thô) giảm đến mức tối thiểu, thay vào đó là axit amin đơn lẻ, các axit amin dư thừa giảm đi, dẫn đến lượng axit uric và amoniac đào thải ra môi trường cũng đáng kể. Nếu CP giảm 3-5% thì lượng nito đào thải giảm tới 60%. Trong thực tế, CP khẩu phần giảm 1% (ví dụ từ 16% xuống còn 15%) thì amoniac giảm khoảng 8-10%.

     

    Axit hóa chế độ ăn uống của gà đẻ: bổ sung thạch cao (muối canxi sulfat ngậm 2 phân tử nước –CaS04.2H20 hoặc canxi benzoat, hoặc hạ thấp sự cân bằng điện giải của khẩu phần ăn (được tính bằng nattri kali+clorua).Thí nghiệm tại trường đại học Iowa cho thấy, cho gà đẻ ăn khẩu phần ít protein, bổ sung thêm thạch cao và zeloit làm giảm 40% khí thải amonia so với chuồng gà đẻ bình thường.

     

    Khẩu phần ăn có tính axit sẽ dẫn đến phân có tính axit-phân chua-phân có độ pH thấp hơn, làm cho amoniac (NH3) chuyển thành amonium (NH4+). Ammonium dễ hòa tan trong nước giảm lượng khuếch tán vào không khí.

     

    Bổ sung 10% DDGS, 7% lúa mỳ loại 2, hoặc 5% vỏ đậu tương –à tổng lượng amoniac sinh ra từ phân giảm tới 50%. Protein, axit amin tổng hợp mới với giá cả cạnh tranh sẽ trở nên thương mại hóa, giảm chi phí thức ăn, điều này cũng làm giảm bài tiết nito ra môi trường (Nahm, 2002). Threonine liên quan đến lysine, ảnh hưởng đến lượng thức ăn tối thiểu của gà (Kidd, 2009). Sử dụng valine cho gà thịt Corzo et al.(2009) đang được áp dụng rộng rãi.

     

    Năng lượng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi phí thức ăn của gia cầm.Nếu tiết kiệm năng lượng sẽ làm giảm chi phí thức ăn. Khẩu phần cho gà không chỉ tính đến ME mà còn phải tính đến năng lượng thực – năng lượng do gia nhiệt, nghĩa là năng lượng được sử dụng hiệu quả cho sản xuất, bao gồm acidifier, prebiotic, probiotic, tinh dầu, enzyme, thuốc an thần, nucleotide, oxit kẽm… đang được sử dụng.

     

    TS Bùi Hữu Đoàn

    và TS Phạm Kim Đăng

    Khoa Chăn nuôi

    Học viện Nông nghiệp Việt Nam

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.