(Tính toán theo số liệu công bố ngày 12/6/2024 của TCHQ)
Nhập khẩu ngô:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt gần 4,24 triệu tấn, trị giá gần 1,07 tỷ USD, giá trung bình 251,8 USD/tấn, tăng 32,1% về lượng, nhưng giảm 1,2% kim ngạch và giảm 25,2% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Trong đó, riêng tháng 5/2024 đạt 754.635 tấn, tương đương 186,15 triệu USD, giá trung bình 246,7 USD/tấn, tăng 14% về lượng và tăng 10,9% kim ngạch so với tháng 4/2024, nhưng giá giảm 2,8%; so với tháng 5/2023 thì tăng mạnh 89,3% về lượng, tăng 41,8% về kim ngạch nhưng giảm 25% về giá.
Achentina vượt qua Brazil trở thành thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2024, chiếm 48,5% trong tổng lượng và chiếm 46,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 2,06 triệu tấn, tương đương gần 498,71 triệu USD, giá 242,7 USD/tấn, tăng 126,6% về lượng, tăng 64,2% kim ngạch nhưng giảm 27,6% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Thị trường lớn thứ 2 là Brazil, trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt gần 1,49 triệu tấn, tương đương 381,82 triệu USD, giá 256,9 USD/tấn, chiếm trên 35% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 7,8% về lượng, nhưng giảm 17% về kim ngạch và giá giảm 23% so với 5 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Lào 5 tháng đầu năm 2024 đạt 75.089 tấn, tương đương 18,79 triệu USD, giá 250,2 USD/tấn, chiếm trên 1,8% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 24,3% về lượng, nhưng giảm 11% về kim ngạch và giá giảm 28,4% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô 5 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 12/6/2024 của TCHQ)
Nhập khẩu đậu tương:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt 988.564 tấn, trị giá gần 522,1 triệu USD, giá trung bình 528,1 USD/tấn, tăng 12,6% về lượng, nhưng giảm 11,2% kim ngạch và giảm 21,2% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Trong đó, riêng tháng 5/2024 đạt 225.917 tấn, tương đương 114,34 triệu USD, giá trung bình 506,1 USD/tấn, tăng 1,4% về lượng, tăng 2,7% kim ngạch so với tháng 4/2024, và giá tăng 1,3%; so với tháng 5/2023 tăng mạnh 60,3% về lượng, tăng 32,4 % về kim ngạch nhưng giảm 17,5% về giá.
Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp đậu tương cho Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2024, chiếm gần 57,8% trong tổng lượng và chiếm 55,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, đạt 571.686 tấn, tương đương gần 290,27 triệu USD, giá 507,8 USD/tấn, tăng 65,2% về lượng, tăng 31,7% kim ngạch nhưng giảm 20,3% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Thị trường lớn thứ 2 là Mỹ, trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt 332.464 tấn, tương đương 182,7 triệu USD, giá 549,5 USD/tấn, chiếm 33,6% trong tổng lượng và chiếm 35% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 25,2% về lượng, giảm 40,2% về kim ngạch và giá giảm 20% so với 5 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Canada 5 tháng đầu năm 2024 đạt 47.731 tấn, tương đương 29,28 triệu USD, giá 613,5 USD/tấn, chiếm 4,8% trong tổng lượng và chiếm 5,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 8,1% về lượng, giảm 24,7% về kim ngạch và giá giảm 18% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu đậu tương 5 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 12/6/2024 của TCHQ)
Nhập khẩu lúa mì:
5 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 2,83 triệu tấn, tương đương trên 779,53 triệu USD, tăng 39,3% về khối lượng, tăng 3,6% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2023.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5/2024 cả nước nhập khẩu 533.673 tấn lúa mì, tương đương 141,12 triệu USD, giá trung bình 264,4 USD/tấn, giảm 34% về lượng, giảm 36% kim ngạch so với tháng 4/2024 và giá giảm 3,3%. So với tháng 5/2023 thì tăng mạnh 40,9% về lượng, nhưng giảm 4,8% kim ngạch và giảm 32,4% giá.
Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 2,83 triệu tấn, tương đương trên 779,53 triệu USD, tăng 39,3% về khối lượng, tăng 3,6% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2023, giá trung bình đạt 275,3 USD/tấn, giảm 25,6%.
Trong tháng 5/2024 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Brazil giảm 42,8% về lượng và giảm 42,5% kim ngạch so với tháng 4/2024, nhưng giá tăng 0,5%, đạt 183.373 tấn, tương đương 45,19 triệu USD, giá 246,4 USD/tấn; trong khi tháng 5/2023 không nhập khẩu từ thị trường này. Tính chung cả 5 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Brazil chiếm 39,9% trong tổng lượng và chiếm 36,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt trên 1,13 triệu tấn, tương đương 282,27 triệu USD, giá trung bình 249,8 USD/tấn, tăng 332% về lượng, tăng 194,6% về kim ngạch nhưng giảm 31,8% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Đứng sau thị trường chủ đạo Brazil là thị trường Australia chiếm 18,7% trong tổng lượng và chiếm 21,4% trong tổng kim ngạch, đạt 529.214 tấn, tương đương 166,64 triệu USD, giá trung bình 314,9 USD/tấn, giảm 62% về lượng, giảm 67% kim ngạch và giảm 13% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Ukraine đạt 436.451 tấn, tương đương 112,43 triệu USD, giá 257,6 USD/tấn, chiếm 15,4% trong tổng lượng và chiếm 14,4% tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước.
Nhập khẩu lúa mì từ thị trường Mỹ đạt 222.982 tấn, tương đương 73,69 triệu USD, giá 330,5 USD/tấn, tăng 52% về khối lượng, tăng 21% về kim ngạch nhưng giảm 20,4% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Nhập khẩu lúa mì 5 tháng đầu năm 2024
Tổng hợp: Thuỷ Chung
Trung tâm TTCN&TM
- nhâp khẩu ngô li>
- nhập khẩu đậu tương li> ul>
- Cân bằng điện giải trong thức ăn gia cầm trong thời kỳ chuyển mùa
- Tự động hóa và kỹ thuật số trong nhà máy sản xuất TĂCN
- Phòng chống dịch tả lợn châu Phi ở Đông Nam Á: Cần chiến lược kiểm soát
- Hội Chăn nuôi thỏ Việt Nam: Đẩy mạnh kết nối chuỗi giá trị ngành chăn nuôi thỏ
- Thừa Thiên Huế: Chủ động phòng, chống rét cho vật nuôi
- Giá sản phẩm chăn nuôi (giá tại trại) cả nước ngày 24/12/2024
- Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam: Hoạt động bền bỉ và thành công
- Dự báo thị trường thức ăn chăn nuôi toàn cầu
- Khởi công xây dựng trạm trộn thức ăn chăn nuôi tại KCN công nghệ cao Mebi Farm
- Hợp quy TĂCN: Nặng hình thức và tốn kém!
Tin mới nhất
T5,26/12/2024
- Cân bằng điện giải trong thức ăn gia cầm trong thời kỳ chuyển mùa
- Tự động hóa và kỹ thuật số trong nhà máy sản xuất TĂCN
- Phòng chống dịch tả lợn châu Phi ở Đông Nam Á: Cần chiến lược kiểm soát
- Hội Chăn nuôi thỏ Việt Nam: Đẩy mạnh kết nối chuỗi giá trị ngành chăn nuôi thỏ
- Thừa Thiên Huế: Chủ động phòng, chống rét cho vật nuôi
- Giá sản phẩm chăn nuôi (giá tại trại) cả nước ngày 24/12/2024
- Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam: Hoạt động bền bỉ và thành công
- Dự báo thị trường thức ăn chăn nuôi toàn cầu
- Đồng Nai: Heo hơi tăng giá, đảm bảo nguồn cung Tết Nguyên đán 2025
- Khởi công xây dựng trạm trộn thức ăn chăn nuôi tại KCN công nghệ cao Mebi Farm
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất