Những “lỗ hổng” tồn tại trong sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 67.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Trà Vinh 63.000 đ/kg
    •  
  • Những “lỗ hổng” tồn tại trong sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong giai đoạn từ 2008-2018, ngành thức ăn chăn nuôi (TĂCN) cả nước có nhiều bước đột phá về xây dựng thể chế, chính sách khuyến khích phát triển, công tác quản lý có rất nhiều tiến bộ. Mặt khác, quy mô đầu tư và sản lượng TĂCN cũng tăng nhanh, công nghệ chế biến ngày càng phát triển, chất lượng thức ăn chăn nuôi cơ bản tốt và giá bán cũng thuộc nhóm thấp… Tuy nhiên, ngành thức ăn chăn nuôi trong nước cũng còn nhiều “lỗ hổng” cần được nhìn nhận thấu đáo để cải thiện, hướng đến hiệu quả và bền vững.

     

    a, Theo Cục Chăn nuôi, một số quy định liên quan đến công bố hợp chuẩn, hợp quy, kiểm tra nhà nước hàng hóa (liên quan đến thức ăn chăn nuôi) chưa ổn định, thay đổi liên tục, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, quy định kiểm tra nhà nước về chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu đang có nhiều cơ quan tham gia (trước kia chỉ có một đơn vị quản lý chuyên ngành là Cục Chăn nuôi thực hiện) gây nên những bất cập như: doanh nghiệp lúng túng khi thực hiện thủ tục hành chính, có sự không thống nhất về phương pháp thực hiện của các cơ quan được giao kiểm tra như có đơn vị không thực hiện xã hội hóa, không giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử… đã làm giảm hiệu quả của công tác quản lý chất lượng TĂCN. Hơn nữa, việc giao nhiều cơ quan thực hiện kiểm tra TĂCN nhập khẩu đã gây khó khăn trong thu thập số liệu TĂCN nhập khẩu, dẫn đến khó dự báo thị trường cũng như xây dựng chính sách phát triển ngành TĂCN.

     

    b,TĂCN nói riêng còn phức tạp, nhất là Luật tiêu chuẩn kỹ thuật đang Quy định Bộ Khoa học & Công nghệ thẩm định các TCVN, QCVN trong khi trách nhiệm quản lý về chất lượng TĂCN là của Bộ NN&PTNT. Điều này, dẫn tới sự không thống nhất về quan điểm quản lý và làm chậm thời gian ban hành, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và làm chậm thời gian ban hành, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn sản xuất.

     

    c, Số lượng nhà máy sản xuất TĂCN công nghiệp tuy nhiều nhưng phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng, khu đông dân cư, khu có mật độ chăn nuôi lớn, vì vậy đã phát sinh chi phí vận chuyển hàng hóa và làm giảm sự tiếp cận đối với TĂCN công nghiệp ở những vùng sâu, vùng xa. Thực hiện quy định tại Luật Chăn nuôi từ ngày 1/1/2020 về điều kiện chăn nuôi, đặc biệt là việc đăng ký cơ sở chăn nuôi trang trại theo mật độ sẽ có sự chuyển dịch đáng kể sản lượng chăn nuôi giữa các vùng, khi việc sản xuất TĂCN cần phải có sự dịch chuyển theo để đáp ứng nhu cầu phát triển chăn nuôi ở những khu vực đó.

     

    d, Hiệu quả sản xuất của các nhà máy sản xuất TĂCN hiện nay chưa cao do chưa sử dụng hết công suất, nhất là nhà máy của các nhóm doanh nghiệp trong nước, do đó càng làm tăng giá thành TĂCN. Bên cạnh đó, số lượng cơ sở đi thuê gia công TĂCN ngày càng nhiều và luôn thay đổi địa chỉ gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về TĂCN.

     

    đ, Số lượng nguyên liệu TĂCN nhập khẩu lớn và ngày càng gia tăng trongd dó là có những nhóm thức ăn bổ sung mà trong nước hoàn toàn có thể làm được như: DCP, bột máu, bột thịt xương, các chế phẩm vi sinh, thảo dược…. Nhiều nguyên liệu thức ăn trong nước có tiềm năng sản xuất chưa được khai thác hết nhất là các loại phụ phẩm nông nghiệp, phụ phẩm công nghiệp.

     

    e, Chi phí sản xuất TĂCN còn cao, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và chưa phù hợp như: chi phí đất đai, tín dụng, thị trường, giá nguyên liệu nhập khẩu… nên giá TĂCN thành phần của Việt Nam vẫn còn cao hơn so với các nước chăn nuôi phát triển.

     

    g, Cơ sở quản lý chất lượng và quản trị doanh nghiệp, thị trường của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ còn nhiều bất cập, phần nhiều các cơ sở mua bán, cơ sở kinh doanh TĂCN nhỏ lẻ ở các địa phương còn có vi phạm về điều kiện sản xuất, kinh doanh ảnh hưởng đến chất lượng, ATTP sản phẩm TĂCN.

     

    h, Việc kiểm tra, xử lí các vi phạm về điều kiện sản xuất, kinh doanh về chất lượng và ATTP sản phẩm TĂCN còn nhiều bất cập, ví dụ:

     

    Chưa có quy đinh về xây dựng chương trình kiểm tra TĂCN hàng năm trên toàn quốc, chưa thực hiện kiểm tra dựa trên nguyên tắc phân tích, đánh giá nguy cơ rủi ro của các cơ sở sản xuất, kinh doanh TĂCN dẫn đến trường hợp doanh nghiệp lớn, làm tốt thì bị kiểm tra nhiều, doanh nghiệp nhỏ năng lực kém thì bị kiểm tra ít.

     

    Năng lực cán bộ quản lý TĂCN ở các địa phương chưa đồng đều, phương pháp kiểm tra chưa thống nhất giữa các địa phương.

     

    Chỉ tập trung kiêm tra các cơ sở sản xuất TĂCN thương mại mà chưa thực hiện kiểm tra các cơ sở sản xuất thức ăn tiêu thụ nội bộ.

     

    Số lượt các đoàn kiểm tra đến các doanh nghiệp còn nhiều, gây khó dễ cho hoạt động kinh doanh nhưng xử lí vi phạm thì rất ít.

     

    Việc kiểm tra các cơ sở mua bán, nhất là đối với các hộ kinh doanhnh nhỏ không được chú ý hoặc kiểm tra rất hình thức.

     

    i, Số lượng sản phẩm TĂCN lưu hành trên thị trường quá nhiều gây khó khăn cho việc lựa chọn của người chăn nuôi và phát sinh nhiều chi phí thị trường làm tăng giá bán của TĂCN.

     

    Tâm An

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.