Tình hình nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 6 tháng đầu năm 2024 - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Tình hình nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 6 tháng đầu năm 2024

    Nhập khẩu ngô: 

     

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt gần 4,85 triệu tấn, trị giá gần 1,22 tỷ USD, giá trung bình 250,6 USD/tấn, tăng 30,6% về lượng, nhưng giảm 1,6% kim ngạch và giảm 24,7% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Trong đó, riêng tháng 6/2024 đạt 654.232 tấn, tương đương 158,58 triệu USD, giá trung bình 242,4 USD/tấn, giảm 13,3% về lượng, giảm 14,8% kim ngạch và giá giảm 1,7% so với tháng 5/2024; so với tháng 6/2023 thì tăng 29,4% về lượng, tăng 2,1% về kim ngạch nhưng giảm 21,1% về giá.

     

    Achentina là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024, chiếm 52,5% trong tổng lượng và chiếm 50,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt trên 2,54 triệu tấn, tương đương trên 616,6 triệu USD, giá 242,3 USD/tấn, tăng 131,4% về lượng, tăng 68,3% kim ngạch nhưng giảm 27,3% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Thị trường lớn thứ 2 là Brazil, trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt trên 1,49 triệu tấn, tương đương 383,17 triệu USD, giá 256,8 USD/tấn, chiếm trên 30,8% trong tổng lượng và chiếm 31,5% tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 8,1% về lượng, nhưng giảm 16,7% về kim ngạch và giá giảm 23% so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Tiếp đến thị trường Lào 6 tháng đầu năm 2024 đạt 74.589 tấn, tương đương 18,64 triệu USD, giá 249,9 USD/tấn, chiếm trên 1,5% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 23,5% về lượng, nhưng giảm 11,7% về kim ngạch và giá giảm 28,5% so với cùng kỳ năm trước.

     

    Nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2024

    (Tính toán theo số liệu công bố ngày 11/7/2024 của TCHQ)

    + Nhập khẩu đậu tương: 
     

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt trên 1,06 triệu tấn, trị giá gần 561,48 triệu USD, giá trung bình 527,4 USD/tấn, giảm 4,8% về lượng, giảm 22,9% kim ngạch và giảm 19% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Trong đó, riêng tháng 6/2024 đạt 69.028 tấn, tương đương 35,42 triệu USD, giá trung bình 513,1 USD/tấn, giảm trên 69,5% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 5/2024, nhưng giá tăng nhẹ 1,4%; so với tháng 6/2023 cũng giảm mạnh 71,3% về lượng, giảm 74,7% về kim ngạch và giảm 12% về giá.

     

    Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp đậu tương cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024, chiếm gần 55,6% trong tổng lượng và chiếm 53,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, đạt 591.770 tấn, tương đương gần 299,72 triệu USD, giá 506,5 USD/tấn, tăng 13,5% về lượng, nhưng giảm 6,1% kim ngạch và giảm 17,3% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Thị trường lớn thứ 2 là Mỹ, trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 377.302 tấn, tương đương 205,88 triệu USD, giá 545,7 USD/tấn, chiếm 35,4% trong tổng lượng và chiếm 36,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 19,3% về lượng, giảm 35,8% về kim ngạch và giá giảm 20,4% so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Tiếp đến thị trường Canada 6 tháng đầu năm 2024 đạt 57.299 tấn, tương đương 35,03 triệu USD, giá 611,3 USD/tấn, chiếm 5,4% trong tổng lượng và chiếm 6,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 12% về lượng, giảm 27% về kim ngạch và giá giảm 17% so với cùng kỳ năm trước.

     

    Nhập khẩu đậu tương 6 tháng đầu năm 2024

    (Tính toán theo số liệu công bố ngày 10/7/2024 của TCHQ)

    Nhập khẩu lúa mì: 

     

    6 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 3,12 triệu tấn, tương đương gần 862,33 triệu USD, tăng 25,9% về khối lượng, nhưng giảm 3,3% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2024 cả nước nhập khẩu 288,14 tấn lúa mì, tương đương 81,45 triệu USD, giá trung bình 282,7 USD/tấn, giảm 46% về lượng, giảm 42,3% kim ngạch so với tháng 5/2024 nhưng giá tăng 6,9%. So với tháng 6/2023 thì giảm mạnh 35,6% về lượng, giảm 45,8% kim ngạch và giảm 15,9% giá.

     

    Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 3,12 triệu tấn, tương đương gần 862,33 triệu USD, tăng 25,9% về khối lượng, nhưng giảm 3,3% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm 2023, giá trung bình đạt 276 USD/tấn, giảm 23,3%.

     

    Trong tháng 6/2024 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Brazil tiếp tục giảm mạnh 88,9% về lượng và giảm 88,7% kim ngạch so với tháng 5/2024, nhưng giá tăng nhẹ 1,5%, đạt 20.416 tấn, tương đương 5,11 triệu USD, giá USD/tấn; trong khi tháng 6/2023 không nhập khẩu từ thị trường này. Tính chung cả 6 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Brazil chiếm 36,8% trong tổng lượng và chiếm 33,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt trên 1,15 triệu tấn, tương đương 287,37 triệu USD, giá trung bình 249,8 USD/tấn, tăng 339,8% về lượng, tăng 200% về kim ngạch nhưng giảm 31,8% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Đứng sau thị trường chủ đạo Brazil là thị trường Australia chiếm 20,7% trong tổng lượng và chiếm 23,3% trong tổng kim ngạch, đạt 646.844 tấn, tương đương trên 201 triệu USD, giá trung bình 310,8 USD/tấn, giảm 64% về lượng, giảm 68% kim ngạch và giảm 11,1% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Tiếp đến thị trường Ukraine đạt 545.052 tấn, tương đương 141,52 triệu USD, giá 259,6 USD/tấn, chiếm 17,5% trong tổng lượng và chiếm 16,4% tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, tăng 901,9% về lượng, tăng 681,2% kim ngạch nhưng giảm 22% về giá.

     

    Nhập khẩu lúa mì từ thị trường Mỹ đạt 226.157 tấn, tương đương 74,54 triệu USD, giá 329,6 USD/tấn, tăng 31,8% về khối lượng, tăng 6% về kim ngạch nhưng giảm 19,5% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.

     

    Nhập khẩu lúa mì 6 tháng đầu năm 2024

    (Tính toán theo số liệu công bố ngày 12/7/2024 của TCHQ)

     

    Thuỷ Chung

    Trung tâm TTCN&TM

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Phạm văn hiệp
  • 0379889599

  • Minh Nguyễn
  • Bài viết rất hay. Tham khảo thêm Bột đá Amico là nhà cung cấp hàng đầu các sản phẩm khoáng sản như: Bột đá CaCO3 bột đá thô Bột đá mịn Bột đá siêu mịn . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.