Nhập khẩu ngô:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt gần 4,85 triệu tấn, trị giá gần 1,22 tỷ USD, giá trung bình 250,6 USD/tấn, tăng 30,6% về lượng, nhưng giảm 1,6% kim ngạch và giảm 24,7% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Trong đó, riêng tháng 6/2024 đạt 654.232 tấn, tương đương 158,58 triệu USD, giá trung bình 242,4 USD/tấn, giảm 13,3% về lượng, giảm 14,8% kim ngạch và giá giảm 1,7% so với tháng 5/2024; so với tháng 6/2023 thì tăng 29,4% về lượng, tăng 2,1% về kim ngạch nhưng giảm 21,1% về giá.
Achentina là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024, chiếm 52,5% trong tổng lượng và chiếm 50,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt trên 2,54 triệu tấn, tương đương trên 616,6 triệu USD, giá 242,3 USD/tấn, tăng 131,4% về lượng, tăng 68,3% kim ngạch nhưng giảm 27,3% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Thị trường lớn thứ 2 là Brazil, trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt trên 1,49 triệu tấn, tương đương 383,17 triệu USD, giá 256,8 USD/tấn, chiếm trên 30,8% trong tổng lượng và chiếm 31,5% tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 8,1% về lượng, nhưng giảm 16,7% về kim ngạch và giá giảm 23% so với 6 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Lào 6 tháng đầu năm 2024 đạt 74.589 tấn, tương đương 18,64 triệu USD, giá 249,9 USD/tấn, chiếm trên 1,5% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 23,5% về lượng, nhưng giảm 11,7% về kim ngạch và giá giảm 28,5% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 11/7/2024 của TCHQ)

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt trên 1,06 triệu tấn, trị giá gần 561,48 triệu USD, giá trung bình 527,4 USD/tấn, giảm 4,8% về lượng, giảm 22,9% kim ngạch và giảm 19% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Trong đó, riêng tháng 6/2024 đạt 69.028 tấn, tương đương 35,42 triệu USD, giá trung bình 513,1 USD/tấn, giảm trên 69,5% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 5/2024, nhưng giá tăng nhẹ 1,4%; so với tháng 6/2023 cũng giảm mạnh 71,3% về lượng, giảm 74,7% về kim ngạch và giảm 12% về giá.
Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp đậu tương cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024, chiếm gần 55,6% trong tổng lượng và chiếm 53,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, đạt 591.770 tấn, tương đương gần 299,72 triệu USD, giá 506,5 USD/tấn, tăng 13,5% về lượng, nhưng giảm 6,1% kim ngạch và giảm 17,3% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Thị trường lớn thứ 2 là Mỹ, trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 377.302 tấn, tương đương 205,88 triệu USD, giá 545,7 USD/tấn, chiếm 35,4% trong tổng lượng và chiếm 36,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 19,3% về lượng, giảm 35,8% về kim ngạch và giá giảm 20,4% so với 6 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Canada 6 tháng đầu năm 2024 đạt 57.299 tấn, tương đương 35,03 triệu USD, giá 611,3 USD/tấn, chiếm 5,4% trong tổng lượng và chiếm 6,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 12% về lượng, giảm 27% về kim ngạch và giá giảm 17% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu đậu tương 6 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 10/7/2024 của TCHQ)

Nhập khẩu lúa mì:
6 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 3,12 triệu tấn, tương đương gần 862,33 triệu USD, tăng 25,9% về khối lượng, nhưng giảm 3,3% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm 2023.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2024 cả nước nhập khẩu 288,14 tấn lúa mì, tương đương 81,45 triệu USD, giá trung bình 282,7 USD/tấn, giảm 46% về lượng, giảm 42,3% kim ngạch so với tháng 5/2024 nhưng giá tăng 6,9%. So với tháng 6/2023 thì giảm mạnh 35,6% về lượng, giảm 45,8% kim ngạch và giảm 15,9% giá.
Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 3,12 triệu tấn, tương đương gần 862,33 triệu USD, tăng 25,9% về khối lượng, nhưng giảm 3,3% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm 2023, giá trung bình đạt 276 USD/tấn, giảm 23,3%.
Trong tháng 6/2024 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Brazil tiếp tục giảm mạnh 88,9% về lượng và giảm 88,7% kim ngạch so với tháng 5/2024, nhưng giá tăng nhẹ 1,5%, đạt 20.416 tấn, tương đương 5,11 triệu USD, giá USD/tấn; trong khi tháng 6/2023 không nhập khẩu từ thị trường này. Tính chung cả 6 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Brazil chiếm 36,8% trong tổng lượng và chiếm 33,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt trên 1,15 triệu tấn, tương đương 287,37 triệu USD, giá trung bình 249,8 USD/tấn, tăng 339,8% về lượng, tăng 200% về kim ngạch nhưng giảm 31,8% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Đứng sau thị trường chủ đạo Brazil là thị trường Australia chiếm 20,7% trong tổng lượng và chiếm 23,3% trong tổng kim ngạch, đạt 646.844 tấn, tương đương trên 201 triệu USD, giá trung bình 310,8 USD/tấn, giảm 64% về lượng, giảm 68% kim ngạch và giảm 11,1% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Ukraine đạt 545.052 tấn, tương đương 141,52 triệu USD, giá 259,6 USD/tấn, chiếm 17,5% trong tổng lượng và chiếm 16,4% tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, tăng 901,9% về lượng, tăng 681,2% kim ngạch nhưng giảm 22% về giá.
Nhập khẩu lúa mì từ thị trường Mỹ đạt 226.157 tấn, tương đương 74,54 triệu USD, giá 329,6 USD/tấn, tăng 31,8% về khối lượng, tăng 6% về kim ngạch nhưng giảm 19,5% về giá so với 6 tháng đầu năm 2023.
Nhập khẩu lúa mì 6 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 12/7/2024 của TCHQ)

Thuỷ Chung
Trung tâm TTCN&TM
- lúa mì li>
- giá đậu tương li>
- bột đậu tương li>
- cung cấp ngô li>
- đậu tương li> ul>
- Xuất khẩu thức ăn gia súc 10 tháng năm 2025 tăng 35,5%
- Quản lý CO₂, độ ẩm và thông gió trong ấp trứng – Yếu tố quyết định thành công
- Thanh Hóa: Giải pháp sạch, kinh tế và giảm phát thải khí mê-tan
- Cục Chăn nuôi và Thú y khảo sát thiệt hại ở Đắk Lắk sau bão lũ
- Việt Nam tăng cường giám sát vi khuẩn Salmonella trên gà đẻ trứng
- Sử dụng hormone trong chăn nuôi heo công nghiệp Ultratocin – Giải pháp vượt trội cho quản lý nái sinh sản
- Tăng cường chính sách hỗ trợ và tổ chức lại sản xuất giúp ngành chăn nuôi sớm phục hồi sau thiên tai
- Chuyên gia Châu Âu hoàn thành chương trình xúc tiến thức ăn chăn nuôi sấy khô tại Việt Nam
- Thiếu hụt thú y cơ sở, người chăn nuôi thêm nỗi lo
- Nhiều dự án chăn nuôi lớn ở Tây Ninh bị ‘nghẽn
Tin mới nhất
T6,05/12/2025
- Xuất khẩu thức ăn gia súc 10 tháng năm 2025 tăng 35,5%
- Quản lý CO₂, độ ẩm và thông gió trong ấp trứng – Yếu tố quyết định thành công
- Thanh Hóa: Giải pháp sạch, kinh tế và giảm phát thải khí mê-tan
- Cục Chăn nuôi và Thú y khảo sát thiệt hại ở Đắk Lắk sau bão lũ
- Việt Nam tăng cường giám sát vi khuẩn Salmonella trên gà đẻ trứng
- Sử dụng hormone trong chăn nuôi heo công nghiệp Ultratocin – Giải pháp vượt trội cho quản lý nái sinh sản
- Tăng cường chính sách hỗ trợ và tổ chức lại sản xuất giúp ngành chăn nuôi sớm phục hồi sau thiên tai
- Chuyên gia Châu Âu hoàn thành chương trình xúc tiến thức ăn chăn nuôi sấy khô tại Việt Nam
- Giá heo hơi hôm nay 5-12: Miền Bắc vượt ngưỡng 60.000 đồng/kg
- Thiếu hụt thú y cơ sở, người chăn nuôi thêm nỗi lo
- AChaupharm: Nấm phổi gia cầm, hiểm họa thầm lặng khi giao mùa
- Chuyên gia bàn giải pháp sử dụng kháng sinh có kiểm soát trong chăn nuôi
- Ngành sữa Việt Nam: Cơ hội “bứt phá” từ nội lực
- Dịch tả heo châu Phi: Hiện trạng và giải pháp kiểm soát hiệu quả (Phần 1)
- Bộ NN&MT mở đợt ‘truy quét’ việc lạm dụng chất kích tăng trưởng, tăng trọng
- Cargill rút khỏi ngành thức ăn thủy sản tại Việt Nam, đóng cửa nhà máy tại Đồng Tháp và Long An
- Chăn nuôi dê bền vững theo chuỗi giá trị: Chủ nhà hàng là mắt xích quan trọng
- Da khỏe, lông đẹp: Chiến lược dinh dưỡng hiệu quả cho heo con sau cai sữa
- Lo ngại bệnh than, Campuchia ngừng nhập một số sản phẩm từ Thái Lan
- Cạn tiền, một công ty tại Nam Phi phải tiêu hủy hơn 350.000 con gà






















Bình luận mới nhất