Bản tin thị trường thịt trong nước và thế giới tháng 7.2024 - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 66.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 65.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 64.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 65.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 65.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bạc Liêu 64.000 đ/kg
    •  
  • Bản tin thị trường thịt trong nước và thế giới tháng 7.2024

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Tháng 7/2024, giá lợn nạc tại Chicago Hoa Kỳ tăng mạnh trở lại. Cuối tháng 7/2024, giá lợn hơi trong nước giảm 1.000 4.000 đồng/kg so với cuối tháng 6/2024, dao động quanh mức 62.000 66.000 đồng/kg. Xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam quý II/2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023; nhập khẩu thịt lợn quý II/2024 giảm so với cùng kỳ năm 2023.

     

    THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

     

    Trong quý II/2024, nguồn cung lợn và sản lượng thịt lợn tại các quốc gia xuất khẩu đều ghi nhận sự sụt giảm, tạo động lực cho giá lợn tăng. Tại Trung Quốc, giá lợn hơi tăng trong quý II/2024 khi nguồn cung giảm do ảnh hưởng của dịch tả lượng châu Phi. Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc trong quý II/2024 giảm so với cùng kỳ năm trước còn do nhu cầu yếu trong bối cảnh nền kinh tế chậm lại đã hạn chế tỷ lệ giết mổ.

     

    Trong tháng 7/2024, giá lợn nạc tại Chicago, Hoa Kỳ biến động mạnh, giá có xu hướng tăng trở lại, nhất là trong 2 tuần gần đây. Ngày 29/7/2024, giá lợn nạc tại Chicago, Hoa Kỳ giao kỳ hạn gần ở mức 93,47 UScent/lb, tăng 4,6% so với cuối tháng 6/2024 và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2023. Trong báo cáo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) về thị trường thịt thế giới, dự báo sản lượng thịt lợn thế giới năm 2024 tương đương như năm 2023. Theo đó, sản lượng thịt lợn thế giới năm 2024 dự kiến đạt 116,3 triệu tấn, tương đương với năm 2023. Xuất khẩu thịt lợn thế giới năm 2024 dự kiến sẽ tăng 3,2% so với năm trước, lên 10,4 triệu tấn. Nhập khẩu thịt lợn thế giới dự kiến đạt 9,11 triệu tấn trong năm 2024, giảm 1% so với năm 2023. Mức tiêu thụ dự kiến đạt 115,1 triệu tấn, giảm 0,3% so với năm 2023.

    USDA cũng dự báo nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc sẽ giảm mạnh, trở lại bằng mức trước khi dịch tả lợn châu Phi (ASF) bùng phát vào năm 2018 và khiến các nước xuất khẩu lớn phải tìm kiếm thị trường thay thế. Nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc năm 2024 dự kiến đạt 1,5 triệu tấn, giảm 21% so với năm 2023, mức thấp nhất kể từ năm 2019. Nếu điều này trở thành hiện thực, nhập khẩu thịt lợn trong năm 2024 của Trung Quốc sẽ trở lại mức tương đương so với mức trước khi dịch ASF bùng phát ở Trung Quốc vào cuối năm 2018. Tuy nhiên, Trung Quốc dự kiến vẫn là nước nhập khẩu thịt lợn lớn nhất thế giới.

     

    Trong năm 2024, sản lượng thịt lợn của Trung Quốc được dự báo tăng 56% so với năm 2020 và nhập khẩu năm trong 2024 dự kiến chỉ chiếm 3% lượng thịt lợn tiêu thụ. Nguyên nhân do nguồn cung tại thị trường Trung Quốc dồi dào, kể từ đầu năm 2023 giá thịt lợn tại Trung Quốc liên tục ở mức thấp đã khiến nhập khẩu giảm. Do đó, thịt lợn nhập khẩu khó cạnh tranh với giá thịt nội địa tại Trung Quốc. Các nước cung cấp thịt lợn lớn cho Trung Quốc, bao gồm Liên minh châu Âu, Bra-xin và Hoa Kỳ dự kiến sẽ tìm kiếm các thị trường thay thế. Tuy nhiên, những thị trường này sẽ chỉ có thể bù đắp một phần nhu cầu giảm từ Trung Quốc. Do đó, cạnh tranh dự kiến sẽ gia tăng ở các thị trường nhập khẩu lớn khác bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Phi-lip-pin.

     

    Theo số liệu của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 6 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 3,19 triệu tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 11,22 tỷ USD, giảm 13,7% về lượng và giảm 18,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ Bra-xin, Hoa Kỳ, Ác-hen-ti-na, Tây Ban Nha, Úc, Niu Di-Lân… Trừ Ác-hen-ti-na và Úc, lượng thịt nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2023. + Thịt trâu, bò: Trong 6 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 1,43 triệu tấn thịt trâu, bò (HS 0201; 0202), trị giá 6,87 tỷ USD, tăng 17% về lượng và tăng 3,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ Bra-xin, Ác-hen-ti-na, U-ru-goay, Úc, Niu Di-Lân, Hoa Kỳ… Trừ U-ru-goay, Niu Di-Lân và Hoa Kỳ, lượng thịt trâu bò nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường còn lại đều tăng so với cùng kỳ năm 2023.

     

    + Thịt gia cầm: Trung Quốc nhập khẩu 443,97 nghìn tấn thịt và phụ phẩm của gia cầm (HS 0207), với trị giá 1,38 tỷ USD, giảm 37,6% về lượng và giảm 39,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ Bra-xin, Nga, Thái Lan, Hoa Kỳ, Bê-la-rút… Đáng chú ý, lượng thịt và phụ phẩm gia cầm nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường này đều giảm so với cùng kỳ năm 2023.

     

     + Thịt lợn: Lượng thịt lợn nhập khẩu của Trung Quốc tiếp tục xu hướng giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm 2024. Theo số liệu của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 6 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 504,4 nghìn tấn thịt lợn (HS 0203), với trị giá 971,64 triệu USD, giảm 45,9% về lượng và giảm 56,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Các thị trường cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2024 gồm: Tây Ban Nha, Bra-xin, Hà Lan, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Anh… Lượng thịt lợn nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường này đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2023.

     

    THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC

     

    Trong quý II/2024, thị trường thịt trong nước không có biến động lớn, nguồn cung luôn đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Đàn lợn của Việt Nam có xu hướng tăng trở lại do chăn nuôi nông hộ chuyển mạnh sang bán công nghiệp, liên kết với doanh nghiệp. Tuy nhiên, dịch tả lợn châu Phi vẫn diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương khiến tình hình chăn nuôi không ổn định, đặc biệt với khu vực hộ gia đình. Giá lợn có xu hướng giảm trở lại từ cuối quý II/2024 do nhu cầu tiêu thụ thấp.

     

    Tháng 7/2024, giá lợn hơi trên cả nước có xu hướng giảm so với tháng trước, dao động trong khoảng 62.000 – 66.000 đồng/kg. Cụ thể, giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 64.000 – 66.000 đồng/ kg, giảm 2.000 – 3.000 đồng/kg so với cuối tháng trước. Tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên, giá lợn hơi dao động trong khoảng 62.000 – 65.000 đồng/kg, giảm 1.000 – 2.000 đồng/kg so với cuối tháng trước. Tại khu vực miền Nam, giá lợn hơi dao động trong khoảng 62.000 – 66.000 đồng/kg, giảm 2.000 – 4.000 đồng/kg so với cuối tháng trước. Với mức giá này, người chăn nuôi vẫn có lãi, yên tâm đầu tư chăm sóc đàn lợn, đảm bảo nguồn cung thịt lợn đến cuối năm và dịp Tết.

     

    Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2024, chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh trên đàn vật nuôi tuy có xu hướng lan rộng nhưng vẫn được kiểm soát, sản lượng thịt lợn và gia cầm xuất chuồng tăng khá so với cùng kỳ năm 2023. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 2.535,8 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2023 (riêng quý II/2024 ước đạt 1.241,9 nghìn tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2023); Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 62,1 nghìn tấn, tương đương so cùng kỳ năm 2023 (riêng quý II/2024 ước đạt 29,2 nghìn tấn, giảm 0,1%); Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 255,9 nghìn tấn, tăng 1,1% (riêng quý II/2024 ước đạt 123,5 nghìn tấn, tăng 0,8%); Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 1.211,1 nghìn tấn, tăng 4,8% (riêng quý II/2024 ước đạt 617,5 nghìn tấn, tăng 4,5%).

    TÌNH HÌNH XUẤT, NHẬP KHẨU THỊT VÀ CÁC SẢN PHẨM TỪ THỊT CỦA VIỆT NAM TRONG QUÝ II/2024

     

    + Về xuất khẩu:

     

    Xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam tăng trưởng tốt trong quý II/2024. Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Tổng cục Hải quan, trong quý II/2024, Việt Nam xuất khẩu được 6,19 nghìn tấn thịt và sản phẩm thịt, trị giá 25,95 triệu USD, tăng 15,8% về lượng và tăng 9,5% về trị giá so với quý I/2024; So với quý II/2023 tăng 36,3% về lượng và tăng 8,8% về trị giá. Thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang các nước thuộc khu vực châu Á, trong đó xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Hồng Kông, chiếm 41,59% về lượng và chiếm 56,46% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, với 2,57 nghìn tấn, trị giá 14,65 triệu USD, tăng 0,8% về lượng, nhưng giảm 6,5% về trị giá so với quý I/2024; So với quý II/2023 tăng 25% về lượng và tăng 16,6% về trị giá.

    Trong quý II/2024, các chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt xuất khẩu chủ yếu gồm: Thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chủ yếu là thịt ếch đông lạnh) được xuất khẩu chủ yếu sang Bỉ, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ…; Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chủ yếu là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh) được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Hồng Kông; Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chủ yếu là chân gà đông lạnh) được xuất khẩu chủ yếu sang Hồng Kông, Trung Quốc, Lào… Đáng chú ý, xuất khẩu các chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt trên đều tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2023.

     

    Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều hoạt động xúc tiến xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt. Trong đó, sản phẩm gia cầm, đặc biệt là các sản phẩm chế biến chín đã được xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc… và một số thị trường thuộc Liên minh châu Âu. Thời gian tới, dự báo xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, các mặt hàng xuất khẩu chính chủ yếu vẫn là thịt lợn sữa đông lạnh, thịt lợn đông lạnh, chân gà đông lạnh, thịt ếch đông lạnh…

     

    + Về nhập khẩu:

     

    Nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam tiếp tục tăng trong quý II/2024. Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, quý II/2024, Việt Nam nhập khẩu 202,27 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt, trị giá 393,85 triệu USD, tăng 17,9% về lượng và tăng 14% về trị giá so với quý I/2024; So với quý II/2023 tăng 22,5% về lượng và tăng 20,5% về trị giá. Trong quý II/2024, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Ba Lan và Bra-xin là 5 thị trường cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam. Trừ Ấn Độ, nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt từ các thị trường còn lại đều tăng so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, Ấn Độ là thị trường cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam với 35,7 nghìn tấn, trị giá 121,39 triệu USD, tăng 24,7% về lượng và tăng 39,1% về trị giá so với quý II/2023.

    Trong quý II/2024, nhập khẩu thịt lợn và thịt bò của Việt Nam có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2023; trong khi nhập khẩu thịt gia cầm, thịt trâu và phụ phẩm sau khi giết mổ của trâu, bò, lợn tăng. Quý II/2024, Việt Nam nhập khẩu 27,04 nghìn tấn thịt lợn (HS 0203), trị giá 60,69 triệu USD, tăng 99,6% về lượng và tăng 99,5% về trị giá so với quý I/2024; nhưng giảm 0,1% về lượng và giảm 16,3% về trị giá so với quý II/2024. Nhập khẩu thịt lợn có xu hướng tăng trong tháng 5 và tháng 6/2024, nhưng lượng nhập khẩu quý II/2024 chỉ bằng khoảng 2,2% so với tổng sản lượng thịt lợn của cả nước. Bra-xin, Nga, Ca-na-đa, Đức và Hoa Kỳ là 5 thị trường cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Việt Nam trong quý II/2024. Trong đó, Bra-xin là thị trường lớn nhất cung cấp thịt lợn cho Việt Nam với 10,5 nghìn tấn, trị giá 23,33 triệu USD, tăng 132% về lượng và tăng 130,1% về trị giá so với quý I/2024; So với quý II/2023 tăng 72,7% về lượng và tăng 60,9% về trị giá.

    Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn bảo Quốc
  • Tôi muốn mua cám dế

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.