Phần 1/4
Nhiều trang trại nuôi gà đẻ trứng đã chuyển sang hệ thống nuôi không lồng. Ở các chăn nuôi không có lồng (Cage-free), thì tập tính làm tổ của gà mái là một đặc điểm kinh tế quan trọng. Trứng được đẻ bên ngoài ổ có nhiều khả năng bị nhiễm vi khuẩn do tiếp xúc nhiều hơn với phân và chất độn chuồng. Trứng đẻ ngoài ổ dễ bị nứt, vỡ và bị các gà mái khác ăn mất. Giá trị của những quả trứng này thấp hơn do bị hạ cấp và bị chuyển sang chế biến. Việc thu gom trứng thủ công tốn kém từ sàn chuồng hoặc trong hệ thống chuồng trại là một điều phiền toái đối với các nhà chăn nuôi gà trứng. Trứng được đẻ dưới sàn có thể dẫn đến nhiều loài ăn thịt đồng loại hơn trong đàn, đây là một vấn đề phúc lợi.
Các đàn mái tơ thường đẻ một số trứng ở nền khi hành vi làm tổ được thiết lập. Thông thường, số lượng trứng đẻ nền sẽ giảm xuống mức thấp trong vòng 2–3 tuần. Trứng ở nền thường dao động từ 1–4% đối với vòng đời của một mãi đẻ (4). Ở thực địa, tỷ lệ trứng nền phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến gà, môi trường, huấn luyện làm tổ và thực hành quản lý.
Hình 1. Hành vi trước khi đẻ ở gà mái bao gồm việc thực hiện nhiều lần để xem xét các vị trí làm tổ tiềm năng trước khi đưa ra lựa chọn tổ cuối cùng.
1. Hành vi làm tổ ở gà
Hiểu được hành vi làm tổ bình thường của gà đẻ là điều quan trọng khi phát triển các chương trình quản lý thích hợp để giảm thiểu trứng đẻ trên nền. Tập tính làm tổ của gà mái là sự tương tác phức tạp của các yếu tố di truyền, tập tính, nội tiết tố và môi trường. Môi trường của gà mái đẻ phải cung cấp các khu vực làm tổ được chỉ định cho phép gà mái thể hiện bản năng tự nhiên là tìm kiếm tổ để đẻ trứng. Việc loại bỏ các địa điểm làm tổ không phù hợp trong môi trường của chim là một thách thức trong quản lý.
1.1. Hành vi trước khi đẻ
Một đến hai giờ trước khi đẻ trứng, gà mái sẽ trở nên bồn chồn và bắt đầu kiểm tra các vị trí làm tổ tiềm năng như một phần của “nghi lễ” trước khi đẻ. Một con gà mái thường xuyên đến thăm tổ trước khi chọn tổ cuối cùng, trung bình 21,3 lần thăm tổ cho mỗi lần đẻ (7). Giữa những lần kiểm tra tổ này, gà mái có thể ăn, uống và rỉa lông, cũng như các hành vi khác (Hình 1). Sau khi chọn địa điểm, gà mái có thể quay lại nhiều lần, thể hiện hành vi xây tổ. Nếu có vật liệu làm tổ lỏng lẻo như mùn cưa, gà mái dành nhiều thời gian hơn để xây tổ. Ngay trước khi đẻ trứng, gà mái kéo dài lông cổ và cơ thể. Một số gà mái sẽ đứng để đẻ trứng. Thời gian để gà mái đẻ trứng rất dao động trong khoảng từ 10 đến 90 phút (7,11). Sau khi trứng được đẻ, gà mái có thể kêu (cục tác) và muốn ngồi trên quả trứng một lúc hoặc rời khỏi ổ.
Sự bắt đầu của hành vi đẻ trước được kích hoạt bởi lần rụng trứng cuối cùng của gà mái (giải phóng nang noãn vào ống dẫn trứng) chứ không phải bởi sự hiện diện của một quả trứng sẵn sàng được đẻ. Lần rụng trứng trước giải phóng các hormone, estrogen và progesterone, chịu trách nhiệm cho hành vi đẻ trước của gà mái (1). Bất kỳ sự kiện căng thẳng nào gây ra phản ứng sợ hãi có thể khiến gà mái đình chỉ việc chọn tổ và trì hoãn việc đẻ trứng. Nếu kích thích đẻ trước vượt qua trước khi trứng được đẻ, thì gà mái có thể mất hứng thú tìm kiếm ổ, dẫn đến nhiều trứng được đẻ trên sàn hơn.
1.2. Trật tự tổ
Trong giai đoạn nuôi, hệ thống phân cấp xã hội về các mối quan hệ thống trị / phục tùng giữa các cá thể trong một nhóm gà được thiết lập. Những con gà có thứ hạng cao được tiếp cận với thức ăn, nước uống và các địa điểm làm tổ lần đầu tiên. Những con gà mái có thứ hạng cao, ưu thế sẽ chiếm những vị trí làm tổ ưa thích để loại trừ những con gà mái có thứ hạng thấp hơn. Nếu số lượng các vị trí làm tổ ưa thích bị hạn chế, thì những con gà mái ngoan ngoãn có thể bị buộc phải tìm kiếm các vị trí làm tổ thay thế, dẫn đến nhiều trứng ra khỏi ổ hơn.
1.3. Sở thích làm tổ
Gà mái thích tổ tối, vắng vẻ, ấm áp và thoải mái. Những tổ có chứa vật liệu rời, chẳng hạn như dăm gỗ, vỏ trấu hoặc rơm rạ được ưa thích hơn và gà mái thể hiện các hành vi xây tổ nhiều hơn. Trong các hệ thống sản xuất thương mại không lồng, người ta thường sử dụng lồng thu trứng tự động, với thảm lót sàn bằng cao su (nhựa) hoặc cỏ nhân tạo. Gà mái thích sàn làm tổ trên sàn đặc hơn sàn lưới (13).
Làm tổ là một hành vi đã được học, nhưng một khi đã thành lập ở gà mái, nó sẽ trở nên khó thay đổi. Gà mái có xu hướng quay trở lại các địa điểm làm tổ giống nhau mỗi ngày. Có thể xác định được các lớp tổ và lớp sàn nhất quán trong một đàn (3). Thách thức quản lý đối với các nhà sản xuất trứng là làm cho các tổ được chỉ định trở nên hấp dẫn đối với gà mái và loại bỏ các địa điểm làm tổ thay thế nơi gà mái có thể đẻ trứng ngoài ổGà mái thích tổ nằm ở góc hoặc ở cuối dãy. Gà ở những vị trí trên cao thường được ưa thích hơn so với những tổ ở mặt đất (8). Những con gà mái trẻ, chưa có kinh nghiệm có thể thích những tổ bị các con gà mái khác chiếm giữ (làm tổ theo kiểu hòa đồng) (1); hành vi này có xu hướng giảm dần theo tuổi gia cầm (Hình 2). Trong hệ thống chuồng gà, gà mái sẽ chọn những tổ biệt lập hơn nằm dọc theo tường trước khi sử dụng những tổ nằm trong giá chuồng (6).
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ trứng tầng
2.1. Hành vi của gà
- Huấn luyện làm tổ
- Gà mái hoặc gà trống thống trị ngăn cản gà mái cấp dưới đến nơi làm tổ
- Hành vi làm tổ bất thường, đặc biệt là ở các lớp gà trẻ
- Quá đông ở góc và cuối dãy tổ
2.2. Thiết kế cơ sở
- Sự di chuyển của gà mái về tổ bị chặn bởi đường nước, máng ăn hoặc thứ khác
- Độ sâu của ổ đẻ
- Các thay đổi về độ cao không được bố trí đúng mức
2.3. Tổ gà
- Không đủ số lượng các vị trí làm tổ thích hợp
- Tổ gà ở những nơi có nhiều tiếng ồn hoặc rung động cơ học hơn
- Thảm trải sàn chuồn gà bị mòn, khiến nhà gà không thoải mái
- Tổ bẩn hoặc có mùi hôi. Điều này có thể xảy ra khi tổ không được khép đóng vào ban đêm hoặc bị dính chất bẩn trong trứng.
- Nội thất của tổ quá sáng
2.4. Môi trường
- Đàn gà quá đông, cản trở sự di chuyển về tổ
- Hệ thống thông gió không đều, khiến nhà gà quá lạnh và ẩm thấp. Vào mùa hè, hệ thống thông gió không đồng đều có thể khiến một số tổ ấm quá nóng với không khí hôi thối.
- Phân bố ánh sáng không đồng đều
- Sốc nhiệt
- Điện áp đánh lạc hướng (xây dựng mới, sửa chữa điện gần đây)
2.5. Quản lý nguồn cấp thức ăn
- Chạy máng ăn trong thời gian làm tổ cao điểm, thu hút gà mái ra khỏi tổ
- Sử dụng sạn, công thức thức ăn có nhiều chất xơ để tăng hành vi kiếm ăn
2.6. Sức khỏe gà
- Các vấn đề về chân do nhiễm trùng (Staphlyococcus, Enterococcus, Mycoplasma hoạt dịch)
- Chấn thương trong quá trình xử lý, chuyển giao hoặc trong hệ thống chuồng gà
- Ổ bị côn trùng phá hoại (ve đỏ, ve bắc, bọ chét, ve)
- Ổ gà nhiễm các loài gặm nhấm
Võ Văn Sự dịch từ: Understinding nesting behavior: Managing for fewer floor eggs in layers. LIGHT (LAYERS)FEED AND NUTRITION (LAYERS)AIR QUALITY (LAYERS)CAGE-FREE EGGSPRODUCTION TYPESEGG LAYERSCHICKENSTYPES OF POULTRYGENETICS AND BREEDING. Laurence Williams. 24 February 2021, at 4:30pm. https://www.thepoultrysite.com/articles/understinding-nesting-behavior-managing-for-fewer-floor-eggs-in-layers
Nguồn: Viện Chăn nuôi
- gà đẻ trứng li>
- tập tính làm ổ li> ul>
- L-Histidine cải thiện chất lượng thịt, giảm rỉ dịch, cho màu thịt đẹp
- Cân bằng điện giải trong thức ăn gia cầm trong thời kỳ chuyển mùa
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
Tin mới nhất
T6,27/12/2024
- Bí quyết nuôi gà đẻ sai trứng, cứng vỏ
- L-Histidine cải thiện chất lượng thịt, giảm rỉ dịch, cho màu thịt đẹp
- Xuất khẩu thức ăn gia súc sang các thị trường 11 tháng đầu năm 2024
- Cargill khánh thành ba điểm trường mới phục vụ hơn 300 học sinh trong năm 2024, đạt mốc 117 trường tại Việt Nam
- CNC Group: Tỏa sáng tại giải thưởng Sao Vàng đất Việt 2024
- Cân bằng điện giải trong thức ăn gia cầm trong thời kỳ chuyển mùa
- Tự động hóa và kỹ thuật số trong nhà máy sản xuất TĂCN
- Phòng chống dịch tả lợn châu Phi ở Đông Nam Á: Cần chiến lược kiểm soát
- Hội Chăn nuôi thỏ Việt Nam: Đẩy mạnh kết nối chuỗi giá trị ngành chăn nuôi thỏ
- Thừa Thiên Huế: Chủ động phòng, chống rét cho vật nuôi
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất