Thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi tại Việt Nam - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi tại Việt Nam

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Thị trường tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam chủ yếu vẫn ở trong nước. Một số sản phẩm chăn nuôi như trứng muối, thịt gà, sữa, thịt lợn đông lạnh… xuất khẩu đi nhiều nước nhưng sản lượng và giá trị vẫn còn quá thấp so với tiềm năng.

     

    Thị trường trong nước

    Bên trong nhà máy giết mổ bò thịt Phú Lâm tại tỉnh Quảng Ninh – Ảnh: Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam)

     

    Cùng với tăng thu nhập, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm nói chung, tiêu dùng thịt, trứng và sữa nói riêng của người Việt những năm gần đây liên tục tăng cao. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mức tiêu thụ bình quân đầu người của các sản phẩm chăn nuôi giai đoạn 2010-2018 tăng 5,1%/năm, trong đó tăng trưởng cao nhất là sữa tươi đạt 11,9%/năm, trứng gia cầm tăng 5,8%/năm, thịt gia súc, gia cầm tăng 1,6-5,3%. Đến nay bình quân sản phẩm chăn nuôi/người của Việt Nam đạt khoảng 55-57 kg thịt hơi các loại, khoảng 130-135 quả trứng và khoảng 13-15kg sữa tươi.

     

    Với quy mô dân số năm 2019 là 96,2 triệu người (Tổng điều tra dân số, 2019), với mức tiêu thụ thịt, trứng và sữa hiện nay của người dân Việt Nam còn thấp so với khu vực (tiêu thụt thịt bằng 84%) Hàn Quốc; trứng bằng 50% Nhật Bản; sữa bằng 40% trung bình châu Á) thì thị trường tiêu thụ nội địa vẫn là thị trường chủ yếu của các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp chế biến thịt, trứng và sữa phục vụ thị trường này còn nhiều thách thức cần giải quyết

     

    Về tiêu thụ thịt

     

    Theo Cục Chăn nuôi, tập quán người Việt Nam chủ yếu tiêu thụ thịt nóng (chiếm 90% lượng tiêu thụt thịt); kênh phân phối các sản phẩm trong nước chủ yếu thông qua kênh bán hàng truyền thống (chợ), chiếm khoảng 80%. Trong khi đó, kênh bán hàng hiện đại qua siêu thị, cửa hàng chiếm chưa tới 20%; liên kết chuỗi thiếu đồng bộ; các sản phẩm chủ yếu qua khâu trung gian làm giá bị đẩy lên cao tới người tiêu dùng nhưng người chăn nuôi cũng không được hưởng lợi nhuận tương ứng.

     

    Từ cuối năm 2019, do ảnh hưởng của ASF, nhóm hàng thịt lợn đông lạnh nhập khẩu nhiều (chủ yếu phục vụ chế biến, nhưng đang có xu hướng dịch chuyển sang tiêu dùng trực tiếp; cơ cấu thịt lợn, thịt gia cầm, thịt gia súc ăn cỏ dang có xu hướng thay đổi trong giỏ thực phẩm của người dân.

     

    Về tiêu thụ trứng

     

    Bên trong nhà máy chế biến trứng tại Công ty Ba Huân (Phúc Thọ – Hà Nội)

     

    Về cơ cấu sản phẩm, chủ yếu là trứng tươi (trên 99%), lượng trứng chế biến còn thấp. Tuy nhiên, việc liên kết theo chuỗi còn hạn chế, sản phẩm chủ yếu qua khâu trung gian; trứng sạch có nhu cầu rất lớn.

     

    Về tiêu thụ sữa

     

    Cơ cấu tiêu dùng tính theo khối lượng, sữa bột chiếm khoảng 48%, sữa nước chiếm 27% (sữa tiệt trùng, sữa thanh trùng và sữa thay thế khác), sữa chua chiếm 13%, sữa đặc chiếm 8% và sản phẩm sữa khác chiếm 4%.

     

    Nhu cầu tiêu dùng sữa tại Việt Nam đang phân hóa khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn tới sưc khỏe bản thân, tiêu dùng các sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao, có lợi cho sức khỏe bản thân, tiêu dùng các loại sản phảm có hàm lượng dinh dưỡng cao, có lợi cho sức khỏe (các dòng sữa cao cấp). Đây cũng là xu hướng tiêu dùng hiện tại ở các nước phát triển như Mỹ, EU.

     

    Hiện nay sữa sản xuất trong nước chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu tiêu dùng nội địa do đó cần phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến vùng sản xuất nguyên liệu.

    Sản phẩm sữa tươi tiệt trùng của Công ty Cổ phần giống bò sữa Mộc Châu

     

    Thị trường xuất khẩu…

     

    Hiện nay, các sản phẩm chăn nuôi chủ lực (thịt, trứng và sữa) của Việt Nam đã xuất khẩu vào thị trường khoảng 60 nước và vùng lãnh thổ; kim ngạch xuất khẩu đạt 570-600 triệu USD/năm. Trong đó: sữa xuất khẩu vào trên 50 nước và giá trị xuất khẩu chiếm 78%; thịt gà vào 8 nước và giá trị chiếm 16%; thịt lợn  (lợn sữa) vào 4 nước và giá trị chiếm 5%; trứng vào 5 nước và giá trị chiếm 1%.

     

    Do công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường được quan tâm, giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi chủ lực có xu hướng tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước và sản phẩm ngày càng đa dạng:

     

    Xuất khẩu thịt các loại năm 2019 của Việt Nam đạt khoảng 55,1 nghìn tấn, trị giá gần 130 triệu USD; tăng 18,9%  về lượng và tăng 26,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018. Ngoài xuất khẩu lợn sữa vào các thị trường truyền thống là Hồng  Kông và Malaysia, từ năm 2018, chúng ta đã xuất khẩu thịt gà chế biến của chuỗi liên kết các doanh nghiệp Koyo Unitek, Hùng Nhơn, De Heus và Bel Ga đã xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản.

     

    Xuất khẩu trứng gia cầm năm 2019 đạt 6,3 triệu USD, tăng 17,9 % so với cùng kỳ năm 2018.

     

    Xuất khẩu sữa năm 2019 đạt 273,8 triệu USD, tăng 23,7% so với năm 2018. Trong đó, sữa bột đạt  đạt 130,1 triệu USD, chiếm 47,5%; sữa bột nguyên kem đạt 51,8 triệu USD, chiếm 18,9%; sữa tươi tiệt trùng 27,7 triệu USD, chiếm 10,1%; còn lại các sản phẩm sữa bột gầy, váng sữa..

     

    Bên cạnh những thuận lợi, việc phát triển thị trường và xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi còn nhiều khó khăn, thách thức:

     

    Chưa xây dựng được nhiều vùng an toàn dịch bệnh đáp ứng yêu cầu của OIE phục vụ xuất khẩu (tính đến giữa năm 2020, cả nước có 28 vùng chăn nuôi ATDB (theo chuỗi) cấp huyện, 129 cấp xã và hơn 1000 cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh cấp trang trại);

     

    Bên cạnh những thuận lợi mở rộng thị trường khi tham gia các Hiệp định tự do thương mại thì một trong những khó khăn đối với ngành chăn nuôi là việc giảm thuế nhập khẩu cùng với sức hút của thị trường 100 triệu dân sẽ tạo cạnh tranh rất mạnh trên sân nhà (năm 2019 kim ngạch nhập khẩu sản phẩm thịt lên tới 1,46 tỷ USD tăng 53,5% so với năm 2018).

     

    Hệ thống thông tin thị trường co ngành chăn nuôi chưa đầy đủ (thiếu thông tin phân tích chuyên sâu, thiếu các thông tin dự báo). Hình thức truyền tải thông tin còn chậm, dẫn đến người sản xuất, kinh doanh chưa tiếp cận được thông tin hiệu quả.

     

    Công tác xúc tiến thương mại cho sản phẩm chăn nuôi còn rất hạn chế một phần do kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi còn ít, một phần do kinh phí xúc tiến thương mại nông sản ngày càng giảm. Bên cạnh đó, việc kết nối thúc đẩy diễn đàn Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B) đối với sản phẩm chăn nuôi cũng rất hạn chế.

     

    TÂM AN

    Theo Cục Chăn nuôi, năm 2020 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi ước đạt khoảng 1,2 tỷ USD. Trong đó: Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh khoảng 28,5 triệu USD; thịt và phụ phẩm gia cầm sau giết mổ khoảng 25,1 triệu USD; trứng gia cầm đã bảo quản hoặc làm chín khoảng 1,4 triệu USD; mật ong tự nhiên khoảng 71,3 triệu USD; xúc xích và các sản phẩm tương tự, phụ phẩm dạng thịt khoảng 0,3 triệu USD; thịt và phụ phẩm dạng thịt đã chế biến khoảng 28,1 triệu USD; thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu khoảng 789 triệu USD.

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.