Ảnh hưởng của khoảng cách lứa đẻ đến năng suất lợn - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Ảnh hưởng của khoảng cách lứa đẻ đến năng suất lợn

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Khoảng cách lứa đẻ có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực sản xuất của một trang trại và chỉ tiêu này, cũng như chỉ tiêu tương ứng của nó là những nhân tố cần được kiểm soát và theo dõi nhằm phát hiện và sớm dự báo những biến động để ngăn chặn những thay đổi hoặc những biến động trong trang trại chăn nuôi.

     

    Ảnh hưởng của khoảng cách lứa đẻ đến năng suất lợnKCLĐ ảnh hưởng đến năng lực sản xuất của trại

     

    Khoảng cách lứa đẻ (KCLĐ) là một trong những chỉ tiêu chung nhất thường được dùng như là một chỉ thị để đánh giá hiệu quả của một trang trại nuôi lợn và được xác định là bình quân số ngày tính từ khi đẻ lứa trước đến khi đẻ lứa sau. Nó có liên quan trực tiếp đến số lần đẻ của mỗi lợn nái và năm theo công thức:

     

    Số lần đẻ của mỗi lợn nái/năm = 365 (ngày/năm)/KCLĐ (ngày/lần đẻ)

     

    Tiếp theo là cách tính toán, những chỉ tiêu của trang trại có ảnh hưởng đến KCLĐ và ảnh hường của KCLĐ đến năng lực sản xuất của trang trại.

     

    1. Cách tính toán

     

    Có một vài cách tính toán chỉ tiêu này. Cách thứ nhất là rất đơn giản, được trình bày qua ví dụ sau:

     

    Ví dụ 1: Trong một trại có 10 lợn nái, với những kết quả “điển hình” đã đạt được, như thời gian mang thai: 115 ngày, thời gian cho con bú: 24 ngày, và thời gian từ cai sữa đến lần phối giống tiếp theo: 5 ngày, như vậy KCLĐ sẽ là:

     

    KCLĐ: 115 + 24 + 5 = 144 ngày

     

    Nếu cả 10 lợn nái đều biểu hiện giống nhau như vậy, KCLĐ bình quân của toàn trại sẽ là 144 ngày.

     

    Nhưng không may, nếu có 1 nái nào đó rơi vào trường hợp thời gian từ cai sữa đến lần phối giống tiếp theo là 21 ngày, KCLĐ của con lợn này sẽ là:

     

    KCLĐ: 144 + 21 = 165 ngày

     

    Từ đó, dẫn đến bình quân KCLĐ của trang trại này sẽ là:

     

    [144 x 9 (của lợn nái không động dục lại) + 165 (của con nái động dục lại)]/10 (tổng số lợn nái) = 146,1 ngày

     

    Như vậy, con nái có khoảng thời gian từ cai sữa đến lần phối giống tiếp theo 21 ngày đã làm tăng KCLĐ bình quân lên 2,1 ngày, điều đó được xem như là một “thất bại” về sinh sản, ảnh hưởng xấu đến KCLĐ.

     

    Mặt khác, khi tính đến KCLĐ, có lẽ dùng thuật ngữ “khoảng thời gian từ cai sữa đến phối giống có chửa” thì chính xác hơn là “khoảng thời gian từ cai sữa đến lần phối giống tiếp theo”.

     

    Từ ví dụ trên, có thể làm phép ngoại suy cho một trang trại nào đó trong một thời gian nhất định: KCLĐ sẽ là tổng bình quân độ dài thời gian mang thai cộng với bình quân độ dài thời gian cho con bú cộng với khoảng cách từ cai sữa đến phối giống có chửa trong thời gian được đề cập đến.

     

    Cách tính thứ hai là dựa vào số lứa đẻ/nái/năm, cách này đôi khi dễ tính toán hơn (Ví dụ 2).

     

    Ví dụ 2: Nếu ta có số lứa đẻ ở một trang trại trong 6 tháng và số đầu lợn nái trong 6 tháng này, số lứa đẻ/nái/năm sẽ là:

     

    Số lứa đẻ/nái/năm = [Tổng lứa đẻ trong 6 tháng * 2 (suy ra cho cả năm)]/ Số đầu lợn nái trong hai lần 6 tháng này

     

    Khi đã có “Số lứa đẻ/nái/năm”, chúng ta tính KCLĐ theo công thức được giới thiệu ở đầu bài viết này.

    Ảnh hưởng của khoảng cách lứa đẻ đến năng suất lợnKinh nghiệm cho thấy, có mối tương quan âm giữa mức ăn vào của lợn mẹ trong thời gian cho con bú với khoảng cách từ cai sữa đến lần phối giống kế tiếp.

     

    2. Những chỉ tiêu có ảnh hưởng đến khoảng cách lứa đẻ

     

    Giả sử rằng bình quân thời gian mang thai có rất ít biến động ở một trang trại, có hai chỉ tiêu có ảnh hưởng lớn đến KCLĐ, đó là khoảng thời gian mẹ nuôi con và khoảng thời gian từ cai sữa đến phối giống có chửa

     

    Thời gian mẹ nuôi con: Chỉ tiêu này có ảnh hưởng lớn vì nếu tăng thời gian mẹ cho con bú thêm 1 ngày thì sẽ tăng thêm 1 ngày cho KCLĐ.

     

    Đây là một trong những điều bất lợi của việc tăng tuổi cai sữa (mặc dầu, đôi khi cũng có mặt lợi riêng của nó).

     

    Để giải quyết trường hợp này, tùy theo chức năng của trang trại mà chọn ngày tuổi cai sữa thích hợp. Xu hướng gần đây có 2 mức ngày tuổi cai sữa: 21 ngày (nếu là trại lợn bán ra con giống để sinh sản) hoặc 28 ngày (nếu là trại lợn bán ra con giống để nuôi lấy thịt). Lý do (ví dụ có một trại nào đó nuôi 100 lợn nái):

     

    – Cai sữa ở 21 ngày tuổi: khối lượng cai sữa ~6,8 kg/con; khối lượng 133 ngày ~96,3 kg/con; lợn mẹ sẽ đạt ~2,41 lứa/nái/năm; số lợn con được sản xuất/năm cho 100 lợn nái ~2410 con/năm.

     

    – Cai sữa ở 28 ngày tuổi: khối lượng cai sữa ~7,7 kg/con; khối lượng 133 ngày ~103,6 kg/con; lợn mẹ sẽ đạt ~2,31 lứa/nái/năm; số lợn con được sản xuất/năm cho 100 lợn nái ~2310 con/năm.

     

    Như vậy, nếu là trại lợn bán ra con giống để nuôi lấy thịt thì nên áp dụng cai sữa ở 28 ngày tuổi, không nên cai sữa ở 21 ngày tuổi, và ngược lại.

     

    Khoảng cách từ cai sữa đến phối giống có chửa: Chỉ tiêu này chủ yếu chịu tác động bởi 2 yếu tố: khoảng thời gian từ cai sữa đến lần phối giống kế tiếp, và, những “thất thoát” về sinh sản.

     

    – Thời gian từ cai sữa đến lần phối giống kế tiếp: Về thực tế, khoảng thời gian này càng kéo dài, KCLĐ sẽ kéo dài theo. Vì vậy, chúng ta cần tìm cách giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ lợn nái chậm động dục lại sau cai sữa con. Đó là những trường hợp khoảng cách từ cai sữa đến lần phối giống kế tiếp dài quá 7 ngày (phạm vi: 5–10 ngày).

     

    Kinh nghiệm cho thấy, có mối tương quan âm giữa mức ăn vào của lợn mẹ trong thời gian cho con bú với khoảng cách từ cai sữa đến lần phối giống kế tiếp. Đó là, nếu mức ăn vào của lợn mẹ (khi nuôi con) giảm, sẽ kéo dài khoảng thời gian từ cai sữa đến lần động dục kế tiếp (thậm chí lợn mẹ chỉ kém ăn 4–5 ngày cũng đã ảnh hưởng).

     

    Một kinh nghiệm nữa là sau khi tách con, nên cho lợn mẹ thường xuyên tiếp xúc với lợn đực, hoặc có thể tiêm PG600® nếu sau tách con 10 ngày mà chưa động dục lại (Can thiệp bằng PG600® cho lợn nái già ngay ngày cai sữa con cũng giúp tăng tỷ lệ động dục lại sau cai sữa 7 ngày).

     

    – Những “thất thoát” về sinh sản: Mỗi một thất thoát về sinh sản đều làm cho KCLĐ bị kéo dài thêm, số ngày kéo dài này bị lãng phí một cách vô ích. Vi dụ: một lợn nái mới phối giống được 55 ngày thì bị sẩy thai. Như vậy, có nghĩa là phải 25 ngày sau nữa nó mới được phối giống lại (nếu cộng dồn, nó mất 80 ngày không sản xuất). Điều đó làm kéo dài KCLĐ thêm một khoảng thời gian gấp 4 lần so với một chu kỳ động dục khoảng 20 ngày.

     

     

    3. Ảnh hưởng của khoảng cách lứa đẻ đến khả năng sản xuất

     

    Để nhận biết ảnh hưởng của sự biến động của KCLĐ đến năng lực sản xuất ở một trang trại, nhất là số lứa đẻ/nái/năm, chúng ta tham khảo tiếp ví dụ sau.

     

    Ví dụ 3: Giả sử tại một trang trại, số lợn con cai sữa/lứa đẻ được giữ ổn định là 10. Sự sai khác với hai KCLĐ khác nhau (ví dụ 151 và 158 ngày) sẽ là:

     

    – Với khoảng cách lứa đẻ = 151 ngày.

     

    Với KCLĐ này, số lứa đẻ/nái/năm sẽ là:

     

    Số lứa đẻ/nái/năm = 365/151 = 2,417

     

    Nếu ta nhân “Số lứa đẻ/nái/năm” với “Số lợn con cai sữa/lứa”, ta sẽ có 24,17 lợn con cai sữa/nái/năm.

     

    – Với khoảng cách lứa đẻ = 158 ngày.

     

    Với cách tính tương tự, ta có:

     

    Số lứa đẻ/nái/năm = 365/158 = 2,31

     

    Với cách tính tiếp như trên, ta có 23,1 lợn con cai sữa/nái/năm.

     

    Trong trường hợp này, nếu tăng KCLĐ thêm 7 ngày, sẽ làm hụt đi 1,07 lợn con cai sữa/nái/năm. Nếu một trang trại có 500 nái, trong trường hợp này, sẽ bị hụt đi 535 lợn con cai sữa. Nói cách khác, hễ KCLĐ tăng thêm 1 ngày, sẽ hụt đi 76,5 lợn con cai sữa/năm.

     

    Như vậy, KCLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực sản xuất của một trang trại và chỉ tiêu này, cũng như chỉ tiêu tương ứng của nó (Số lứa đẻ/nái/năm) là những nhân tố cần được kiểm soát và theo dõi nhằm phát hiện và sớm dự báo những biến động để ngăn chặn những thay đổi hoặc những biến động trong trang trại chăn nuôi.

     

    PGS. TS Nguyễn Tấn An

    (sưu tầm và giới thiệu)

     

    Anh” KCLĐ ảnh hưởng đến năng lực sản xuất của trại

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.