Tình hình ngành chăn nuôi Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cao Bằng 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lai Châu 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bắc Ninh 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 54.000 - 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 54.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Gia Lai 55.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 57.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cà Mau 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Tháp 56.000 đ/kg
    •  
  • Tình hình ngành chăn nuôi Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025

    [Chăn nuôi Việt Nam] – Theo Báo cáo của Cục Chăn nuôi và Thú y, trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành chăn nuôi Việt Nam chứng kiến diễn biến trái chiều giữa các loại vật nuôi. Tổng đàn lợn giảm do dịch bệnh, trong khi đàn gia cầm tăng trưởng ổn định, trâu bò tiếp tục giảm nhẹ. Bên cạnh đó, thị trường sản phẩm chăn nuôi tương đối ổn định, xuất nhập khẩu tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

     

    Tình hình chăn nuôi

     

    Chăn nuôi lợn: 

     

    Nhiều tỉnh trên cả nước ghi nhận tổng đàn lợn giảm so với cùng thời điểm năm trước do ảnh hưởng của dịch bệnh, số lượng lợn chết và tiêu hủy lớn, đồng thời nhiều hộ chăn nuôi chưa đủ điều kiện để tái đàn.

     

    Trong đó, Cao Bằng chịu thiệt hại nặng nhất với tổng đàn giảm 36,1%, Quảng Trị giảm 15,1%, Phú Thọ 12,6%, Đà Nẵng 10,6%, Quảng Ngãi 6,4%, Lạng Sơn 5,8%, Lai Châu 4,8%, Hà Nội 4,2%.

     

    Tổng đàn lợn trên cả nước giảm so với năm ngoái. Ảnh: st

     

    Mặc dù các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chịu nhiều thiệt hại, các doanh nghiệp và cơ sở chăn nuôi theo chuỗi liên kết vẫn duy trì ổn định sản xuất nhờ áp dụng các biện pháp an toàn sinh học. Đến cuối tháng 9/2025, một số địa phương đã công bố hết dịch, nhưng nguy cơ tái phát vẫn hiện hữu, đặc biệt ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung, nơi mưa bão, ngập úng và độ ẩm cao tạo điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh phát triển.

     

    Tổng đàn lợn cả nước đến cuối tháng 9/2025 ước đạt 26,26 triệu con (không bao gồm 4,5-4,7 triệu lợn con chưa tách mẹ), giảm khoảng 0,6% so với cùng kỳ năm 2024.

     

    Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 4.038,3 nghìn tấn, tăng 4,6%; quý III ước đạt 1.339,1 nghìn tấn, tăng 2,0%. Nhìn chung, mặc dù tổng đàn giảm nhẹ, nhưng sản lượng thịt lợn vẫn tăng nhờ người chăn nuôi tái đàn ở các hộ an toàn sinh học và nhu cầu tiêu

     

    Chăn nuôi gia cầm:

     

    Đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong 9 tháng, đặc biệt khu vực doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Người chăn nuôi gia cầm chủ động tăng đàn để bù đắp nguồn cung thịt lợn giảm, nhưng cần cân nhắc để tránh dư thừa, gây áp lực lên giá thị trường.

     

    Tổng số gia cầm cả nước cuối tháng 9/2025 đạt 587,47 triệu con, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2024. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 1.926,3 nghìn tấn, tăng 5,6%; sản lượng trứng gia cầm đạt 15,7 tỷ quả, tăng 4,9%.

     

    Một số tỉnh có đàn gia cầm tăng trưởng mạnh gồm An Giang 15,7%, Lâm Đồng 11,3%, Cần Thơ 7,9%, Lạng Sơn 7,6%. Nhìn chung, chăn nuôi gia cầm đang trở thành điểm sáng của ngành chăn nuôi, góp phần ổn định thị trường thực phẩm và tạo nguồn cung dồi dào cho xuất khẩu.

     

    Chăn nuôi trâu, bò: 

     

    Đàn trâu, bò tiếp tục giảm do hiệu quả kinh tế thấp và diện tích chăn thả thu hẹp. Tổng số trâu cả nước cuối tháng 9/2025 là 2,04 triệu con, giảm 3,6%; tổng số bò 6,26 triệu con, giảm 1,0%; đàn bò sữa giảm 1,2%. Sản lượng thịt trâu hơi ước đạt 90,6 nghìn tấn, tăng 0,1%; thịt bò hơi 385 nghìn tấn, tăng 1,8%; sữa bò tươi 997,3 nghìn tấn, tăng 5,8%.

     

    Tổng đàn bò sữa giảm chủ yếu do TP. Hồ Chí Minh giảm gần 24% trong quá trình chuyển đổi ngành. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lớn như TH, Vinamilk áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm, giúp sản lượng sữa tăng.

     

    Thị trường sản phẩm chăn nuôi

     

    Giá sản phẩm: 

     

    Giá thịt lợn hơi tháng 9/2025 bình quân cả nước khoảng 57.800 đ/kg, giảm 0,3% so với tháng 8 và giảm 10,6% so với cùng kỳ năm 2024. Khu vực miền Bắc – Trung dao động 54.000-56.000 đ/kg, miền Nam 58.000-60.000 đ/kg. Dự báo giá sẽ ổn định quanh mức 56.000-60.000 đ/kg.

     

    Giá gà thịt lông màu nuôi công nghiệp bình quân 60.300 đ/kg, tăng 18,3% so với tháng 8 và 26,9% so với cùng kỳ; gà công nghiệp lông trắng bình quân 36.610 đ/kg, tăng 11,1% so với tháng 8 và 21,4% so với cùng kỳ.

     

    Nguyên liệu, thức ăn chăn nuôi : 

     

     

    Tháng 9/2025, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi ổn định, một số giảm so với tháng 8. Giá cám gạo chiết ly giảm sau khi tăng mạnh tháng 8 do nhu cầu thức ăn chăn nuôi tăng và hạn chế nguồn cung từ Ấn Độ.

     

    Xuất – nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi

     

    Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 9/2025 ước đạt 53,7 triệu USD, tăng 13,3% so với tháng 8. 9 tháng đầu năm đạt 447 triệu USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ; trong đó thịt và phụ phẩm tăng 28,9%.

     

    Lợn sống xuất sang Lào, Campuchia đạt 840 con (640 nghìn USD), tăng 18%. Xuất khẩu bò sống trên 21,6 triệu USD, gà giống 9 triệu con (tăng 2,2 lần), trứng gia cầm 1,2 triệu USD (giảm 31,4%). Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt 990 triệu USD, tăng 31,4%.

     

    Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 9/2025 ước 369 triệu USD, nâng tổng kim ngạch 9 tháng lên 3,3 tỷ USD, tăng 22,1%. Tổng lượng lợn giống nhập khẩu hơn 6.000 con, gà trắng giống bố mẹ 2,24 triệu con, gà màu giống bố mẹ hơn 511 nghìn con.

     

    Nhập khẩu trâu, bò sống gần 283 nghìn con, chủ yếu từ Thái Lan. Nguyên liệu TACN nhập khẩu 2,19 triệu tấn (695,1 triệu USD), khối lượng tăng 5,89%, giá trị giảm 3,53%.

     

    Nhìn chung, ngành chăn nuôi Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025 đang trải qua sự phân hóa rõ rệt: lợn chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh và thiên tai, gia cầm phát triển ổn định và trở thành điểm sáng, trâu bò giảm nhẹ do hiệu quả kinh tế chưa cao.

     

    Thị trường sản phẩm chăn nuôi tương đối ổn định, xuất nhập khẩu tăng, cho thấy ngành chăn nuôi đang thích ứng với các biến động và dần chuyển hướng sang phát triển bền vững, áp dụng công nghệ cao và chuỗi liên kết an toàn sinh học để giảm thiểu rủi ro.

     

    C.A

    1 Comment

    1. Vi chien

      Giá heo hơi năm nay người chăn nuôi trong nước được mỗi phân là nhiều. Lỗ .

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Quang Ngọc
  • Cho em xin tài liệu ạ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.