Ravagnolo et al. (2000) báo cáo rằng nhiệt độ tối đa và độ ẩm tương đối tối thiểu là các biến quan trọng nhất để định lượng stress nhiệt, và cả hai biến được dễ dàng kết hợp thành một chỉ số gọi là THI. Sản lượng sữa giảm 0,2 kg theo THI tăng 1 đơn vị khi THI vượt quá 72. Các tác giả kết luận rằng THI có thể được sử dụng để ước lượng ảnh hưởng của stress nhiệt đến sản xuất.
Rõ ràng với kích thước cơ thể tương tự và diện tích bề mặt, con bò đang cho sữa chứa nhiều hơn đáng kể lượng nhiệt để giải tỏa hơn so với một con bò không cho sữa và sẽ gặp khó khăn lớn hơn để làm việc này trong môi trường nóng, ẩm ướt. Nếu so sánh bò không cho sữa, hoặc cho sữa ít (18,5 kg / ngày) hoặc cao (31,6 kg / ngày), con bò có năng suất cao và thấp tạo ra nhiệt nhiều hơn 27 và 48% so với bò không cho sữa bò mặc dù có thấp hơn về khối lượng cơ thể (752, 624, và 597 kg cho tương ứng 3 loại bò không vắt sữa, thấp, và cao, tương ứng) (Purwanto et al., 1990).
Ảnh minh họa
Thở nhiều và đổ mồ hôi tăng sự phụ thuộc vào mức tăng làm mát bay hơi. Thở làm giảm CO2 qua thông qua phổi, làm giảm nồng độ trong máu của axit carbonic và làm xáo trộn sự cân bằng quan trọng của axit carbonic để bicarbonate cần thiết để duy trì độ pH trong máu, dẫn đến nhiễm kiềm hô hấp (Benjamin, 1981). Việc bồi thường cho các nhiễm kiềm hô hấp liên quan đến việc tăng tiết niệu bài tiết bicarbonate (Benjamin, 1981), dẫn đến một sự suy giảm nồng độ bicarbonate huyết.
Beede và Collier (1986) đã xác định ba chiến lược quản lý để giảm thiểu những ảnh hưởng của stress nhiệt: 1) thay đổi vật lý của môi trường (bóng, làm mát), 2) Tăng cường cải tiến di truyền tạo nên các giống/dòng chịu nhiệt, và 3) cải thiện dinh dưỡng. Dựa trên kiến thức hiện nay, sự kết hợp các hoạt động này có thể tối ưu hóa để tối ưu hóa khả năng sản xuất sữa trong khí hậu nóng ẩm.
Lợi ích từ phun nước và quạt đã được nghiên cứu ở môi trường ôn đới và khí hậu ẩm ướt (Bang Kentucky, Mỹ) cho thấy, tại đó bò cho hơn 3,6 kg sữa (15,9%) trong khi tiêu thụ hơn 9,2% thức ăn mỗi ngày so với nhóm đối chứng (Turner et al., 1992). Công trình Missouri và Israel cho thấy sữa tăng 0,7 kg / ngày ở nhiệt độ vừa phải (Igono et al., 1985) và 2,6 kg kg trong môi trường nóng ẩm (Her et al., 1988. Tần suất làm ướt và thời gian làm mát là rất quan trọng đối với hiệu quả của hệ thống làm mát. Bò được làm ướt 10 giây ít hiệu quả so với bò được làm ướt 20 hoặc 30 giây (có tác dụng tương tự) (Flamenbaum et al., 1986)
Tương tự, bò được làm lạnh bằng vòi phun nước và quạt trong thời gian cạn sữa duy trì nhiệt độ cơ thể thấp hơn và bê được đẻ ra nặng hơn 2,6 kg và cho thêm 3,5 kg sữa / ngày trong 150 ngày đầu của chu kỳ so với bò chỉ được ở trong bóng mát (Wolfenson et al. , 1988).
Tuy nhiên nghiên cứu từ miền nam Hoa Kỳ và vùng Caribbean chỉ ra rằng bò cái giống Holstein được nuôi ở vĩ độ thấp hơn 34 ° N có khối lượng sơ sinh bé hơn 6-10%, và lúc trưởng thành bé hơn 16% so với bò được nuôi ở các vĩ độ phía bắc, ngay cả khi chúng là con của một bò đực giống (NRC, 1981).
Bởi vì bê cái hậu bị sinh ra ít nhiệt cơ thể và có thể giải tỏa nhiệt dễ dàng hơn so với bò cho sữa, vậy làm mát chúng sẽ có lợi gì? Tại Ai Cập, bê được cho tiếp xúc với 3 môi trường: mùa đông (17,3 ° C, 54,5% RH), mùa hè (36 ° C, 47% RH), và mùa hè có phun nước phun cùng với cho uống thuốc gây thoát mồ hôi (oral diaphoretic) (Marai et al., 1995). Thuốc thuốc gây thoát mồ hôi (trong thí nghiệm này acetate) là một hợp chất được cho gia súc ăn để tăng tiết mồ hôi. Bê hậu bị được phun nước bảy lần mỗi ngày trong khoảng thời gian nóng nhất trong ngày. Bê hậu bị được làm lạnh có nhiệt độ trực tràng và tần suất thở đều thấp hơn và tăng trọng thêm 26,1% nhờ được làm mát trong mùa hè, một sự gia tăng mạnh mặc dù bê chỉ được phun nước trong thời gian nóng nhất trong ngày mà không sử dụng quạt.
Phân hủy protein thức ăn có thể đặc biệt quan trọng trong điều kiện stress nhiệt. Chế độ ăn với hàm lượng đạm thô thấp (31,2%) và cao (39,2%) đạm không phân hủy (undegraded feed protein – RUP) trong điều kiện thời tiết nóng không tác động đến thu nạp vật chất khô (Dry Matter Intake – DMI); tuy nhiên năng suất tăng thêm 2,4 kg/ngày và lượng Ure trong máu giảm từ 17,5 xuống 13,3 /100 ml đối với chế độ ăn uống có chứa đạm không phân huy cao hơn (Belibasakis et al., 1995).
Công trình nghiên cứu tại bang Arizona được tóm tắt bởi Huber et al. (1994) cho thấy rằng một khi bò được đưa vào môi trường nóng thì đạm có thể phân hủy trong dạ cỏ (Rumen Degradable Protein – RDP) không được vượt quá 61% protein thô trong khẩu phần, và tổng số protein không được vượt so với khuyến nghị của tiêu chuẩn NRC (Mỹ) quá 100 g Nito /ngày. Một trăm gram N tương đương với khoảng 3,1% đạm thô trong khẩu phần ăn, với giả sử là 20 kg lượng vật chất khô thu nạp / ngày. Lysine trong khẩu phần cao (241 g/ ngày, 1% vật chất khô) tăng sản lượng sữa thêm 3 kg so với khẩu phần có chứa 137g lysin /ngày (= (0,6% vật chất khô) (Huber et al., 1994).
Ngành sữa Israel đã phát triển các phương pháp giảm stress nhiệt trong hơn 30 năm qua, nhằm giúp bò để phát huy tối đa tiềm năng của chúng. Ở Israel, làm mát được dựa trên sự bốc hơi nước từ bề mặt của con vật bằng việc kết hợp làm ẩm và thông gió cưỡng bức. Bò đượ làm mát tích cực vào mùa hè cho ít hơn 0,6 kg/ ngày so với các con vật nuôi cùng đàn trong mùa đông. Tuy nhiên, khi không được làm mát vào mùa hè, khoảng cách giữa mùa đông và mùa hè là 3,6 kg / ngày. “Tỷ lệ sản xuất hè -đông” là 98% đối với bò được àm mát tích cực và là 90% đối với bò không được làm mát.
Tỉ lệ thụ thai của bò được thụ tinh đạt 45%. Bò đươc làm mát tích cực có tỷ lệ đậu thai là 34% trong mùa hè, so với chỉ 17%, ở bò không được làm mát. Bò làm mát cần 0,55 kg thức ăn để sản xuất 1 kg sữa, trong khi bò không làm mát cần 0,61 kg thức ăn, cải thiện 10% hiệu quả cho ăn.
Các kinh nghiệm thu được ở tại Israel chỉ ra rằng trong mùa hè nếu làm mát ở mùa hè thì cả năng suất sữa và sinh sản được cải thiện. Kết quả tương tự có thể được dự kiến trong ngành sữa khác từ các khu vực nóng của thế giới trong tương lai. (Từ Báo cáo tóm tắt của các ngành công nghiệp sữa của Israel cho năm 2011 bởi ICBA).
Tính mùa vụ trong việc cung cấp sữa cho các ngành công nghiệp chế biến và thị trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế hầu hết các ngành sản xuất sữa của Israel. Do ảnh hưởng của khí hậu, sản xuất sữa mùa hè không đạt được nhu cầu thị trường, và, do đó, sữa mùa đông đang “di chuyển” để được tiêu thụ trong mùa hè. Mỗi năm, gần 40 triệu lít sữa là “di chuyển” ở Israel từ mùa đông sang mùa hè, với một chi phí hàng năm bổ sung 8 triệu US $ (0,2 US $ một lít).
Từ các số liệu chúng ta có thể thấy rằng tỷ lệ thụ thai của bò tơ hậu bị đạt trung bình là 62%. Gần 20% số bò cái được thụ tinh dưới 13 tháng tuổi và tỷ lệ thụ thai ở lần phối đầu tiên (65%), không có sự khác biệt với bọn phối giống muộn hơn. Chỉ 5% số bò cái được phối giống được thụ tinh sau hơn 18 tháng tuổi. Ở lớp bò cái mang thai, 20% có thai trước 13 tháng tuổi, 75% trong số chúng có thai cho đến khi 15 tháng tuổi và chỉ có 7% lượng bê hậu bị có thai trên 18 tháng tuổi. Tỷ lệ thụ thai của bê cái hậu bị suy giảm theo lần phối. Gần 60% số bò cái được hình thành để phối giống đầu tiên và gần 80% số bò cái thai sau hai lần phối giống.
Tỷ lệ thụ thai tương đối tốt của bò tơ cho phép một bộ phận lớn nông dân Israel thu được nhiều bò thụ thai để có được nhiều lứa đẻ hơn vào mùa xuân và đầu mùa hè trong mục đích “thu hẹp khoảng cách” thiếu sữa trong mùa hè.
Khác với trước đây, nông dân Israel phối giống cho bê hậu bị sớm hơn và trong năm 2010, gần 75% lượng bò sữa lứa 1 được thụ tinh trong 00 ngày đầu chu kỳ.
Trong góc độ thực hành thụ tinh sớm cho bò lứa 1 đã không giúp được gì nhiều, khi ít hơn 10% số bò như thế có thai trong 75 ngày đầu chu kỳ sữa và chỉ có 45% có thai trong 110 ngày. Gần 30% số bò lứa 1 có thai quá 150 ngày đầu chu trong sữa và trung bình số ngày chửa lại đầu tiên là 129 ngày.
Bò sữa trưởng thành được thụ tinh lại từ ngày thứ 50 sau khi đẻ. Gần 90% loại bồ này được thụ tinh lại từ 50 đến 110 ngày đầu chu kỳ sữa và chỉ có 10% sau hơn 150 ngày. Tỷ lệ thụ thai của bò được làm mát tích cực cao hơn đáng kể so với bò không được (59% so với 17% và 57% Vs 17%), trong phối lần đầu và tất cả các lần phối giống, tương ứng. Tỷ lệ mang thai sau 90, 120 và 150 ngày sau khi đẻ khác biệt đáng kể giữa các nhóm (44%, 59% và 73% và 5%, 11% và 11%) tương ứng cho các các nhóm được làm mát và không. Trong một bài giảng trong sự kiện này, công trình nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Khoa học động vật của Đại học Hebrew, Jerusalem đã được trình bày. Trong hơn hai thập kỷ các nhà khoa học đã nghiên cứu để phát triển các phương pháp điều trị nội tiết tố hỗ trợ để cải thiện khả năng sinh sản vào mùa hè bò. Trong số các điều trị đó ta có thể tìm thấy những điều sau đây:
Những nỗ lực đó nhằm điều khiển lượng progesterone trong máu sau khi thụ tinh để hỗ trợ mang thai, điều trị hormon GnRH trong giai đoạn phối giống để cải thiện điêu khiển thời gian hợp lý (timing) giữa rụng trứng và thụ tinh, sự cải thiện của trứng chất lượng thông qua điều trị nội tiết tố để loại bỏ nang già tuổi được sản xuất trong điều kiện stress nhiệt và sử dụng kỹ thuật thụ tinh mùa hè có ấn định thời gian và cấy phôi. Một phần lớn các phương pháp điều trị đã được phát hiện để cải thiện tỉ lệ thụ thai trong mùa hè cùng việc làm mát cho vật nuôi.
TS. Võ Văn Sự tổng hợp
Nguồn: Viện Chăn nuôi
- chăn nuôi bò sữa li> ul>
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nghiên cứu axit amin chỉ ra tiềm năng cho chế độ ăn ít protein hơn
- Bổ sung sắt uống để phòng ngừa thiếu máu ở heo con sơ sinh
- Rối loạn chất lượng thịt ức ở gà thịt hiện đại
- Vỏ yến mạch đang ngày càng phổ biến trong dinh dưỡng gia cầm
- 6 thành phần giàu chất xơ và lợi ích của chúng đối với người chăn nuôi gia cầm
- Lựa chọn chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gà thịt giống
- 6 điều có thể bạn chưa biết giúp thúc đẩy quá trình tổng hợp protein (tăng cơ bắp) ở heo
- Đất sét trao đổi ion trong thức ăn có thể thể hiện đặc tính kháng sinh
- Nghiên cứu đầu tiên về vi khuẩn nước bọt lợn cho thấy sự biến đổi cao
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Ký kết hợp tác giữa Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Thương nhân thịt Singapore
- Ảnh hưởng của chất béo đến năng suất, chất lượng và thành phần axit béo của trứng
- Nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch
- Quảng Ninh: Móng Cái chủ động phòng dịch cho đàn vật nuôi
- Nhập khẩu thịt heo có thể tăng trở lại vào quý IV
- Có hiện tượng một số doanh nghiệp chăn nuôi lớn tiêu thụ gia súc nhiễm dịch bệnh
- Hiệu quả từ các hầm biogas trong chăn nuôi trong hành trình giảm 30% phát thải khí mê – tan
- Sản lượng thịt lợn của Trung Quốc giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu
- Nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2024 trị giá gần 935,84 triệu USD
- Tập đoàn Mavin: 02 trang trại heo đạt tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP (phiên bản S.L.P)
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất