Một số nghiên cứu đã nói rằng, giữa khối lượng heo con sơ sinh và tỷ lệ chết của heo con trước khi cai sữa có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, các nhà nghiên cứu đã tìm cách giúp nhận biết được giá trị ngưỡng của khối lượng heo sơ sinh dẫn đến tỷ lệ chết trước cai sữa bằng cách phân tích dữ liệu từ tổng số 4.068 heo con ở 394 lứa của bốn trang trại thương phẩm.
Cải thiện tỷ lệ sống sót của heo ở tất cả các giai đoạn chăn nuôi gần đây đã được xác định là mục tiêu ưu tiên của ngành chăn nuôi heo. Giá trị trung bình trong sáu năm (2012-2017) của ngành chăn nuôi Mỹ về tỷ lệ chết của heo trước khi cai sữa, heo cai sữa và heo vỗ béo lần lượt là 17,6%, 4,6% và 5,3%. Điều này tương ứng với tỷ lệ chết tổng thể của heo trên thị trường là khoảng 27,5%, trong đó 64% là tỷ lệ chết xảy ra trước khi cai sữa.
Ảnh: Koos Groenwold
Sự chọn lọc các con heo nái sản xuất được các lứa đẻ lớn đã tạo ra những tiến bộ rõ rệt đối với năng suất heo nái. Tuy nhiên, khi số con trong một lứa đẻ tăng lên thì khối lượng heo con sẽ giảm xuống và số heo con có khối lượng dưới 1kg tăng lên. Hơn nữa, số lượng phôi thai có thể vượt quá khả năng chứa của tử cung, dẫn đến hội chứng thai chậm tăng trưởng trong tử cung, ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống sót của heo sơ sinh. Heo con mắc hội chứng chậm tăng trưởng thường được gọi là “heo còi cọc”. Người ta thường phân loại “heo còi cọc” hoặc heo chậm tăng trưởng dựa vào khối lượng heo sơ sinh, cân nặng khi sinh so với trung bình của lứa đẻ, chỉ số khối lượng cơ thể, chiều dài từ đỉnh đầu đến mông và chỉ số insulin huyết tương. Heo con có nguy cơ chết cao nhất trong bốn ngày đầu sau khi sinh. Các nguyên nhân gây chết phổ biến nhất là do bị heo mẹ đè, sức khỏe yếu hoặc do chết đói. Khối lượng heo sơ sinh thấp và heo chậm tăng trưởng làm ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng vận động, sức sống, khả năng bú, đường huyết, lắng đọng chất béo và sự điều hòa nhiệt độ của heo con, khiến những con heo này gặp bất lợi khi canh tranh với các con khác có khối lượng nặng hơn.
Tầm quan trọng của khối lượng heo con sơ sinh
Người ta biết rằng khối lượng sơ sinh của heo con là một chỉ số quan trọng để giúp heo con sống sót, nhưng sự phân loại về khối lượng heo sơ sinh khác nhau rất nhiều trong các nghiên cứu và ngưỡng khối lượng heo sơ sinh làm tăng tỷ lệ chết trước cai sữa chưa được thiết lập trước đó. Do đó, một phân tích đã được thiết lập để xác định ngưỡng khối lượng heo sơ sinh liên quan đến việc tăng nguy cơ chết trước cai sữa. Mục đích là cho phép các nhà nghiên cứu đánh giá tác động tiêu cực của heo con nhẹ cân trong chăn nuôi, từ đó đưa ra các biện pháp để can thiệp, thực hiện biện pháp sinh học và các biện pháp cải thiện di truyền.
Khối lượng heo sơ sinh và các số liệu về khả năng sống sót trước cai sữa của 4.068 heo con được phân tích từ hai nghiên cứu giúp xác định mối quan hệ giữa khối lượng heo sơ sinh và tỷ lệ chết của heo con trước cai sữa. Các số liệu này được chọn lọc vì chúng đại diện cho các điều kiện thương mại và các quy trình chăn nuôi hiện đại cho Hoa Kỳ và Châu Âu. Bộ dữ liệu của Bergstrom (2011) bao gồm 216 lứa và 2.205 heo con ở một trang trại ở Hoa Kỳ, trong khi bộ dữ liệu của Jourquin (2015) bao gồm 178 lứa và 1.863 heo con ở ba trang trại ở Tây Ban Nha. Bảng 1 cung cấp thêm chi tiết về gen di truyền, các lứa đẻ và tuổi cai sữa được áp dụng trong mỗi trang trại. Theo quy trình hoạt động tiêu chuẩn trong trang trại, heo con trong trang trại ở Hoa Kỳ bị thiến trong vòng 7 ngày đầu sau sinh, trong khi heo con ở Tây Ban Nha thì không áp dụng.
Bergstrom, 2011 | Jourquin et al., 2015 | Jourquin et al., 2015 | Jourquin et al., 2015 | ||
Trang trại | 1 | 2 | 3 | 4 | |
Quốc gia | Mỹ | Tây Ban Nha | Tây Ban Nha | Tây Ban Nha | |
Dòng heo đực giống | PIC327 | Pietrain | Pietrain | Pietrain | |
Dòng heo nái | Triumph TR4×PIC 1050 | PIC 1050 | Large White×Landrace | ACMC | Large White×Landrace |
Số lứa đẻ của heo nái | 1-9 | 2-8 | 2-8 | 2-8 | |
Tổng số heo con | 2,205 | 772 | 632 | 459 | |
Tuổi cai sữa, (ngày) | 22-28 | 21–29 | 21–29 | 21–29 |
Bố trí thử nghiệm và kết quả
Trong cả hai nghiên cứu, tổng số heo con được sinh ra, heo con chết non và chết khô được ghi nhận trong mỗi lứa. Trong vòng 24 giờ sau khi đẻ và sau khi tiêu thụ sữa non, mỗi heo con còn sống sẽ được xác định bằng một thẻ tai đặc biệt và được cân bằng cách sử dụng cân chuyên dụng có màn hình kỹ thuật số khóa. Tình trạng sống sót của từng heo con được theo dõi và theo dõi từ khi sinh cho đến khi cai sữa. Khối lượng sơ sinh của heo con được tổng kết gồm 18 loại khác nhau khi sinh. Tỷ lệ chết trước cai sữa sau đó được tóm tắt cho từng loại và kết quả được vẽ thành một biểu đồ.
Kích thước lứa đẻ trung bình trên hai bộ dữ liệu là 13.18, nhưng nghiên cứu của EU thì kích thước lứa đẻ trung bình nhiều hơn 2,12 con heo trên mỗi lứa so với nghiên cứu của Hoa Kỳ. Khối lượng sơ sinh trung bình trong các nghiên cứu là 1,51 ± 0,38 kg và không có sự khác biệt lớn về khối lượng khi sinh hoặc tỷ lệ phần trăm khối lượng khi sinh giữa 2 nghiên cứu. Tỷ lệ chết trước cai sữa trung bình trong hai nghiên cứu là 12,2%, nhưng tỷ lệ chết trước cai sữa trong nghiên cứu ở Châu Âu cao hơn 5,6% so với nghiên cứu ở Mỹ. Những dữ liệu về kích thước lứa đẻ, khối lượng sơ sinh của heo con và tỷ lệ chết trước cai sữa phù hợp với các nghiên cứu trước đây được thực hiện ở châu Âu và Mỹ.
Mối quan hệ Đường cong được xác định
Tỷ lệ chết trước cai sữa được biểu thị ngược lại so với khối lượng sơ sinh của heo con, cho thấy mối quan hệ đường cong giữa khối lượng sơ sinh và tỷ lệ chết trước cai sữa trong cả hai nghiên cứu, trong đó tỷ lệ chết trước cai sữa tăng lên ở nhóm heo nhẹ cân, tuy nhiên đường cong biểu thị tỷ lệ chết trước cai sữa đi xuống và đạt mức cân bằng tại khối lượng heo sơ sinh tăng trên 1kg trong bộ dữ liệu của Mỹ và tăng trên 1,2kg trong bộ dữ liệu châu Âu.
Để xác định chính xác hơn ngưỡng khối lượng heo sơ sinh đối với tỷ lệ chết trước cai sữa phải thực hiện các mô hình hồi quy logistic phát triển cho các bộ dữ liệu châu Âu, Mỹ và kết hợp các bộ dữ liệu để giúp ước tính xác suất tỷ lệ chết trước cai sữa dựa trên khối lượng heo sơ sinh. Điểm thay đổi hoặc giá trị ngưỡng của khối lượng sơ sinh đối với tỷ lệ chết trước cai sữa được ước tính là 1.09kg trong bộ dữ liệu của Hoa Kỳ, 1.13kg trong bộ dữ liệu EU và 1.11kg cho bộ dữ liệu kết hợp. Thật thú vị khi lưu ý rằng việc thêm heo nái vào mô hình như một hiệu ứng ngẫu nhiên có thể dẫn đến giá trị ngưỡng khối lượng heo sơ sinh là 1,11kg để giảm tỷ lệ chết trước cai sữa trong bộ dữ liệu kết hợp. Điều này cho thấy khối lượng sơ sinh 1,11kg có ý nghĩa đáng kể đối với tỷ lệ sống của heo con bất kể kích thước hay khối lượng của lứa đẻ.
Quản lý và kiểm soát khối lượng heo con sơ sinh đã mang lại tiềm năng lớn giúp cải thiện tỷ lệ sống sót của heo từ khi sinh ra đến khi xuấn bán ngoài thị trường. Để hiểu rõ những cơ hội này, nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào:
1. Nghiên cứu giá trị 1,11kg là ngưỡng khối lượng khi sinh làm tăng nguy cơ về tỷ lệ chết trước cai sữa,
2. Định lượng tỷ lệ heo thương phẩm có khối lượng sơ sinh lên tới 1,11kg và
3. Xác định các chiến lược quản lý để cải thiện khả năng sống sót và năng suất trọn đời của heo con với khối lượng sơ sinh nhỏ hơn hoặc bằng 1,11kg
Biên dịch: Ecovet Team (theo PigProgress)
Nguồn: Ecovet
- heo con sơ sinh li>
- thức ăn cho heo con li>
- heo con li> ul>
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
- Những lợi ích thực tế của bã bia trong thức ăn cho bò sữa
- Một sức khỏe – Cách tiếp cận toàn diện giúp cải thiện an toàn thực phẩm
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- “Chạy đua” xử lý các cơ sở chăn nuôi nằm ngoài vùng quy hoạch
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Bình Phước: Chuẩn bị heo thịt cho thị trường tết
- Đề xuất kéo dài miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất