Nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì 4 tháng đầu năm 2024 - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 66.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 65.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 64.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 65.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 65.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bạc Liêu 64.000 đ/kg
    •  
  • Nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì 4 tháng đầu năm 2024

    Nhập khẩu ngô:

     

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 4 tháng đầu năm 2024 đạt trên 3,44 triệu tấn, trị giá trên 871,09 triệu USD, giá trung bình 253 USD/tấn, tăng 22,5% về lượng, nhưng giảm 8,4% kim ngạch và giảm 25,2% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.

     

    Trong đó, riêng tháng 4/2024 đạt 661.615 tấn, tương đương 167,93 triệu USD, giá trung bình 253,8 USD/tấn, giảm 24% về lượng và giảm 22,2% kim ngạch so với tháng 2/2024, nhưng giá tăng 2,5%; so với tháng 4/2023 thì tăng 6,4% về lượng, nhưng giảm 20,8% về kim ngạch và giảm 25,5% về giá.

     

    Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2024, chiếm 43,2% trong tổng lượng và chiếm 43,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 1,49 triệu tấn, tương đương gần 381,69 triệu USD, giá 256,9 USD/tấn, tăng 9,8% về lượng, nhưng giảm 15,6% kim ngạch và giảm 23,1% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.

     

    Thị trường lớn thứ 2 là Achentina, trong 4 tháng đầu năm 2024 đạt gần 1,3 triệu tấn, tương đương 316,54 triệu USD, giá 243,8 USD/tấn, chiếm 37,7% trong tổng lượng và chiếm 36,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng mạnh 90,2% về lượng, tăng 37,1% về kim ngạch nhưng giá giảm 27,9% so với 4 tháng đầu năm 2023.

     

    Tiếp đến thị trường Lào 4 tháng đầu năm 2024 đạt 73.996 tấn, tương đương 18,56 triệu USD, giá 250,8 USD/tấn, chiếm trên 2% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 22,5% về lượng, nhưng giảm 12,1% về kim ngạch và giá giảm 28,3% so với cùng kỳ năm trước.

     

    Nhập khẩu ngô 4 tháng đầu năm 2024

    (Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/5/2024 của TCHQ)

    Nguồn: Vinanet/VITIC

     

    Nhập khẩu đậu tương:

     

    4 tháng đầu năm 2024 cả nước nhập khẩu 762.867 tấn đậu tương, trị giá trên 407,82 triệu USD, giá trung bình 534,6 USD/tấn.

     

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 4/2024 đạt 222.830 tấn, tương đương 111,29 triệu USD, giá trung bình 499,4 USD/tấn, tăng 10,9% về lượng và tăng 7,5% kim ngạch so với tháng 3/2024, nhưng giá giảm 3,1%; so với tháng 4/2023 thì giảm cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức giảm tương ứng 6,4%, 28,2% và 23,3%.

     

    Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 cả nước nhập khẩu 762.867 tấn đậu tương, trị giá trên 407,82 triệu USD, giá trung bình 534,6 USD/tấn, tăng 3,5% về lượng nhưng giảm 18,7% kim ngạch và giảm 21,5% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.

     

    Đậu tương nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất từ thị trường Brazil, riêng tháng 4/2024 nhập khẩu 137.390 tấn, tương đương 65,55 triệu USD, giá trung bình 477 USD/tấn, tăng 2,6% về lượng nhưng giảm 1,2% kim ngạch so với tháng 3/2024, và giá giảm 3,7%; so với tháng 4/2023 thì giảm cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức giảm tương ứng 1,7%, 26,2% và 24,9%; Tính chung, 4 tháng đầu năm 2024 nhập khẩu từ thị trường này đạt 411.156 tấn, tương đương 210,74 triệu USD, chiếm 53,9% trong tổng lượng và chiếm 51,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước.

     

    Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Mỹ – thị trường lớn thứ 2 trong tháng 4/2024 sụt giảm 15,5% về lượng, giảm 18% kim ngạch so với tháng 3/2024 và giá giảm 3%, đạt 48.482 tấn, tương đương 25,68 triệu USD, giá trung bình 529,6 USD/tấn. Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu từ thị trường này đạt 281.886 tấn, tương đương 156,48 triệu USD, giá 555 USD/tấn, chiếm 37% trong tổng lượng và chiếm 38,4% kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 27,4% về lượng, giảm 42% về kim ngạch và giá giảm 20% so với cùng kỳ năm trước.

     

    Ngoài ra, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada 4 tháng đầu năm đạt 34.055 tấn, tương đương trên 21,29 triệu USD, giá 625 USD/tấn, giảm 12% về lượng, giảm 25,9% về kim ngạch và giá giảm 15,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ thị trường Campuchia đạt 2.997 tấn, tương đương 2,17 triệu USD, giá 722,9 USD/tấn, tăng mạnh gần 836,6% về lượng, tăng 762% kim ngạch nhưng giá giảm 8%.

     

    Nhập khẩu đậu tương 4 tháng đầu năm 2024

    (Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/5/2024 của TCHQ)

    Nhập khẩu lúa mì:

     

    4 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt gần 2,3 triệu tấn, tương đương gần 638,37 triệu USD.

     

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2024 cả nước nhập khẩu 808.186 tấn lúa mì, tương đương trên 221 triệu USD, giá trung bình 273,5 USD/tấn, tăng 72,3% về lượng, tăng 68,2% kim ngạch nhưng giảm 2,4% về giá so với tháng 3/2024. So với tháng 4/2023 cũng tăng 83,2% về lượng, tăng 38,5% kim ngạch nhưng giảm 24,4% về giá.

     

    Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt gần 2,3 triệu tấn, tương đương gần 638,37 triệu USD, tăng 38,9% về khối lượng, tăng 5,6% về kim ngạch so với 4 tháng đầu năm 2023, giá trung bình đạt 277,8 USD/tấn, giảm 23,9%.

     

    Trong tháng 4/2024 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Brazil tăng mạnh 35,7% về lượng, tăng 33% về kim ngạch nhưng giảm 1,9% về giá so với tháng 3/2024, đạt 320.373 tấn, tương đương 78,6 triệu USD, giá 245,3 USD/tấn. Tính chung cả 4 tháng, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Brazil, chiếm 41,2% trong tổng lượng và chiếm 37,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt 946.804 tấn, tương đương 237,08 triệu USD, giá trung bình 250,4 USD/tấn, tăng mạnh 261,9% về lượng, tăng 147,4% về kim ngạch nhưng giảm 31,6% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.

     

    Tiếp sau đó là thị trường Australia chiếm 21,5% trong tổng lượng và chiếm 24,5% trong tổng kim ngạch, đạt 493.428 tấn, tương đương 156,11 triệu USD, giá trung bình 316,4 USD/tấn, giảm 55,9% về lượng, giảm 60,7% kim ngạch và giảm 10,9% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023

     

    Thị trường Ukraine đứng thứ 3 đạt 285.875 tấn, tương đương 74,25 triệu USD, giá 259,7 USD/tấn, chiếm 12,4% trong tổng lượng và chiếm 11,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, tăng mạnh 872,4% về lượng, tăng 658,4% về kim ngạch nhưng giảm 22% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.

     

    Nhập khẩu lúa mì 4 tháng đầu năm 2024

    (Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/5/2024 của TCHQ

    Thuỷ Chung

    Trung tâm TTCN&TM

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.