Nhập khẩu ngô:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 4 tháng đầu năm 2024 đạt trên 3,44 triệu tấn, trị giá trên 871,09 triệu USD, giá trung bình 253 USD/tấn, tăng 22,5% về lượng, nhưng giảm 8,4% kim ngạch và giảm 25,2% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.
Trong đó, riêng tháng 4/2024 đạt 661.615 tấn, tương đương 167,93 triệu USD, giá trung bình 253,8 USD/tấn, giảm 24% về lượng và giảm 22,2% kim ngạch so với tháng 2/2024, nhưng giá tăng 2,5%; so với tháng 4/2023 thì tăng 6,4% về lượng, nhưng giảm 20,8% về kim ngạch và giảm 25,5% về giá.
Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2024, chiếm 43,2% trong tổng lượng và chiếm 43,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 1,49 triệu tấn, tương đương gần 381,69 triệu USD, giá 256,9 USD/tấn, tăng 9,8% về lượng, nhưng giảm 15,6% kim ngạch và giảm 23,1% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.
Thị trường lớn thứ 2 là Achentina, trong 4 tháng đầu năm 2024 đạt gần 1,3 triệu tấn, tương đương 316,54 triệu USD, giá 243,8 USD/tấn, chiếm 37,7% trong tổng lượng và chiếm 36,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng mạnh 90,2% về lượng, tăng 37,1% về kim ngạch nhưng giá giảm 27,9% so với 4 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Lào 4 tháng đầu năm 2024 đạt 73.996 tấn, tương đương 18,56 triệu USD, giá 250,8 USD/tấn, chiếm trên 2% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 22,5% về lượng, nhưng giảm 12,1% về kim ngạch và giá giảm 28,3% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô 4 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/5/2024 của TCHQ)
Nguồn: Vinanet/VITIC
Nhập khẩu đậu tương:
4 tháng đầu năm 2024 cả nước nhập khẩu 762.867 tấn đậu tương, trị giá trên 407,82 triệu USD, giá trung bình 534,6 USD/tấn.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 4/2024 đạt 222.830 tấn, tương đương 111,29 triệu USD, giá trung bình 499,4 USD/tấn, tăng 10,9% về lượng và tăng 7,5% kim ngạch so với tháng 3/2024, nhưng giá giảm 3,1%; so với tháng 4/2023 thì giảm cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức giảm tương ứng 6,4%, 28,2% và 23,3%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 cả nước nhập khẩu 762.867 tấn đậu tương, trị giá trên 407,82 triệu USD, giá trung bình 534,6 USD/tấn, tăng 3,5% về lượng nhưng giảm 18,7% kim ngạch và giảm 21,5% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.
Đậu tương nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất từ thị trường Brazil, riêng tháng 4/2024 nhập khẩu 137.390 tấn, tương đương 65,55 triệu USD, giá trung bình 477 USD/tấn, tăng 2,6% về lượng nhưng giảm 1,2% kim ngạch so với tháng 3/2024, và giá giảm 3,7%; so với tháng 4/2023 thì giảm cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức giảm tương ứng 1,7%, 26,2% và 24,9%; Tính chung, 4 tháng đầu năm 2024 nhập khẩu từ thị trường này đạt 411.156 tấn, tương đương 210,74 triệu USD, chiếm 53,9% trong tổng lượng và chiếm 51,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước.
Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Mỹ – thị trường lớn thứ 2 trong tháng 4/2024 sụt giảm 15,5% về lượng, giảm 18% kim ngạch so với tháng 3/2024 và giá giảm 3%, đạt 48.482 tấn, tương đương 25,68 triệu USD, giá trung bình 529,6 USD/tấn. Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu từ thị trường này đạt 281.886 tấn, tương đương 156,48 triệu USD, giá 555 USD/tấn, chiếm 37% trong tổng lượng và chiếm 38,4% kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 27,4% về lượng, giảm 42% về kim ngạch và giá giảm 20% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada 4 tháng đầu năm đạt 34.055 tấn, tương đương trên 21,29 triệu USD, giá 625 USD/tấn, giảm 12% về lượng, giảm 25,9% về kim ngạch và giá giảm 15,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ thị trường Campuchia đạt 2.997 tấn, tương đương 2,17 triệu USD, giá 722,9 USD/tấn, tăng mạnh gần 836,6% về lượng, tăng 762% kim ngạch nhưng giá giảm 8%.
Nhập khẩu đậu tương 4 tháng đầu năm 2024
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/5/2024 của TCHQ)
Nhập khẩu lúa mì:
4 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt gần 2,3 triệu tấn, tương đương gần 638,37 triệu USD.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2024 cả nước nhập khẩu 808.186 tấn lúa mì, tương đương trên 221 triệu USD, giá trung bình 273,5 USD/tấn, tăng 72,3% về lượng, tăng 68,2% kim ngạch nhưng giảm 2,4% về giá so với tháng 3/2024. So với tháng 4/2023 cũng tăng 83,2% về lượng, tăng 38,5% kim ngạch nhưng giảm 24,4% về giá.
Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2024 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt gần 2,3 triệu tấn, tương đương gần 638,37 triệu USD, tăng 38,9% về khối lượng, tăng 5,6% về kim ngạch so với 4 tháng đầu năm 2023, giá trung bình đạt 277,8 USD/tấn, giảm 23,9%.
Trong tháng 4/2024 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Brazil tăng mạnh 35,7% về lượng, tăng 33% về kim ngạch nhưng giảm 1,9% về giá so với tháng 3/2024, đạt 320.373 tấn, tương đương 78,6 triệu USD, giá 245,3 USD/tấn. Tính chung cả 4 tháng, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Brazil, chiếm 41,2% trong tổng lượng và chiếm 37,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt 946.804 tấn, tương đương 237,08 triệu USD, giá trung bình 250,4 USD/tấn, tăng mạnh 261,9% về lượng, tăng 147,4% về kim ngạch nhưng giảm 31,6% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.
Tiếp sau đó là thị trường Australia chiếm 21,5% trong tổng lượng và chiếm 24,5% trong tổng kim ngạch, đạt 493.428 tấn, tương đương 156,11 triệu USD, giá trung bình 316,4 USD/tấn, giảm 55,9% về lượng, giảm 60,7% kim ngạch và giảm 10,9% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023
Thị trường Ukraine đứng thứ 3 đạt 285.875 tấn, tương đương 74,25 triệu USD, giá 259,7 USD/tấn, chiếm 12,4% trong tổng lượng và chiếm 11,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, tăng mạnh 872,4% về lượng, tăng 658,4% về kim ngạch nhưng giảm 22% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023.
Nhập khẩu lúa mì 4 tháng đầu năm 2024
Thuỷ Chung
Trung tâm TTCN&TM
- Giá lúa mì li>
- bột đậu tương li>
- đậu tương li>
- lúa mì li>
- giá đậu tương li> ul>
- Thừa Thiên Huế: Chủ động phòng, chống rét cho vật nuôi
- Giá sản phẩm chăn nuôi (giá tại trại) cả nước ngày 24/12/2024
- Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam: Hoạt động bền bỉ và thành công
- Dự báo thị trường thức ăn chăn nuôi toàn cầu
- Khởi công xây dựng trạm trộn thức ăn chăn nuôi tại KCN công nghệ cao Mebi Farm
- Hợp quy TĂCN: Nặng hình thức và tốn kém!
- Nâng tầm giá trị thương hiệu sản phẩm, hàng hóa Việt Nam: Cần gỡ bỏ nút thắt
- “Chạy đua” xử lý các cơ sở chăn nuôi nằm ngoài vùng quy hoạch
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Bình Phước: Chuẩn bị heo thịt cho thị trường tết
Tin mới nhất
T4,25/12/2024
- Thừa Thiên Huế: Chủ động phòng, chống rét cho vật nuôi
- Giá sản phẩm chăn nuôi (giá tại trại) cả nước ngày 24/12/2024
- Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam: Hoạt động bền bỉ và thành công
- Dự báo thị trường thức ăn chăn nuôi toàn cầu
- Đồng Nai: Heo hơi tăng giá, đảm bảo nguồn cung Tết Nguyên đán 2025
- Khởi công xây dựng trạm trộn thức ăn chăn nuôi tại KCN công nghệ cao Mebi Farm
- Hợp quy TĂCN: Nặng hình thức và tốn kém!
- Nâng tầm giá trị thương hiệu sản phẩm, hàng hóa Việt Nam: Cần gỡ bỏ nút thắt
- “Chạy đua” xử lý các cơ sở chăn nuôi nằm ngoài vùng quy hoạch
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất