Phát triển chăn nuôi trong bối cảnh hội nhập - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 62.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 60.000 - 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 61.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 63.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Khánh Hòa 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 62.000 đ/kg
    •  
  • Phát triển chăn nuôi trong bối cảnh hội nhập

    Trong EVFTA, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ ngay lập tức 31,82% số dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi; 6 dòng thuế áp dụng hạn ngạch (các sản phẩm gia cầm); số dòng thuế còn lại sẽ giảm về 0% sau 3 – 9 năm. Trong CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ ngay lập tức 21,64% số dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi; 76,39% số dòng thuế sẽ giảm về 0% sau 2-16 năm, còn lại chỉ một số ít sản phẩm gia cầm sẽ giữ nguyên mức thuế cũ.

     

    Nông dân chăn nuôi lợn không được lợi khi giá lợn cao

     

     Ngày 20/2/2020, Viện Chính sách chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Ipsard) tổ chức Hội thảo “Phát triển chăn nuôi bền vững trong bối cảnh hội nhập và đảm bảo an toàn dịch bệnh”. Thạc sĩ Nguyễn Việt Hưng, cán bộ Bộ môn Nghiên cứu Thị trường và Ngành hàng của Ipsard trình bày Báo cáo “Ảnh hưởng của rủi ro dịch bệnh và hội nhập đối với ngành chăn nuôi”, đây là kết quả của một nghiên cứu thị trường ngành hàng thịt lợn được Ipsard thực hiện trong trong suốt năm 2019 vừa qua.

    Giá thịt lợn xuất chuồng tăng cao thì nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ hầu như không có lợn xuất bán

     

    Ông Hưng cho biết, chăn nuôi lợn hiện đang là sinh kế tạo thu nhập cho hơn 3,4 triệu hộ gia đình, chiếm tỷ trọng 26,9% trong tổng số 9,32 triệu hộ sản xuất nông lâm thủy sản. Năm 2018, tổng đàn của Việt Nam đạt 28,12 triệu con, sản lượng thịt 3,8 triệu tấn, xếp thứ 5 thế giới về sản xuất thịt lợn, sau Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, Brazil, Nga. Ngành chăn nuôi lợn những năm qua liên tục lâm vào tình trạng bất ổn về cung cầu, khiến đầu ra luôn bấp bênh, giá lợn hơi xuất chuồng luôn biến động ngoài tầm kiểm soát. Từ cuối 2016 đến hết năm 2017, giá lợn giảm mạnh, quanh mức 25-30 nghìn đồng. Đầu năm 2019, giá lợn giảm sâu khi dịch tả lợn châu Phi bắt đầu nổ ra, nhưng về cuối năm, do số lượng lợn tiêu hủy nhiều, quy mô đàn nuôi suy giảm, khiến giá thịt lợn tăng quá cao. Tính bình quân cả năm 2019, giá lợn hơi tăng khoảng 65% so với 2018.

     

     Nghiên cứu về tác động của dịch bệnh tới cung cầu ngành hàng lợn và sinh kế hộ chăn nuôi trong năm vừa qua cho thấy, khoảng cách về giá giữa người bán lẻ và người chăn nuôi lớn, khiến lợi nhuận của nông hộ chăn nuôi thấp. Khi nông dân có lợn xuất bán thì giá lợn thấp, cộng với dịch bệnh khiến tiêu hủy nhiều, hàng trăm nghìn hộ chăn nuôi bị thua lỗ, phá sản. Từ cuối năm 2019 đến nay, giá thịt lợn xuất chuồng tăng cao thì nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ hầu như không có lợn xuất bán, nên họ không được hưởng lợi. Hiện tại, các trang trại và hộ chăn nuôi quy mô lớn có mong muốn tái đàn sớm với quy mô tái đàn thấp hơn trước kia, trong khi hộ chăn nuôi nhỏ hầu như không còn vốn và “sức” để tái đàn.

     

     Để giúp sức cho nông dân khôi phục chăn nuôi lợn, ThS Nguyễn Việt Hưng khuyến nghị: Nhà nước cần nghiên cứu hỗ trợ hộ chăn nuôi quy mô nhỏ chuyển đổi sản xuất sang ngành nghề khác. Trong dài hạn, cần đẩy mạnh chăn nuôi gia súc ăn cỏ, gia cầm đảm bảo ba nguyên tắc: đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học; cân đối cung cầu; đảm bảo an sinh xã hội. Cần ưu tiên phân bổ ngân sách phòng, chống và hỗ trợ thiệt hại do bệnh dịch tả lợn châu Phi đối với những tỉnh xác định chăn nuôi lợn là sản phẩm chủ lực cấp tỉnh.

     

    Chăn nuôi Việt Nam ở thế yếu khi hội nhập

     

    TS Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Ipsard nhận định, thực thi các Hiệp định thương mại tự do CPTPP và EVFTA, ngành chăn nuôi Việt Nam ở thế yếu trong cạnh tranh. Trong CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ ngay lập tức 21,64% số dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi; 76,39% số dòng thuế sẽ giảm về 0% sau 2-16 năm, còn lại chỉ một số ít sản phẩm gia cầm sẽ giữ nguyên mức thuế ở mức 80%.

     

    Các nước trong CPTPP đều cam kết về lộ trình xóa bỏ, thuế đối với sản phẩm chăn nuôi. Trong đó, Úc, New Zealand sẽ xó bỏ đến 99% số dòng thuế. Canada sẽ xóa bỏ 69,4% số dòng thuế sản phẩm chăn nuôi ngay từ năm đầu thực thi CPTPP; 86 dòng thuế sẽ áp mức hạn ngạch tùy thuộc vào sản phẩm. Với Mexico, 74,2% dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi sẽ xóa bỏ ngay lập tức, các sản phẩm sữa sẽ bị áp hạn ngạch tùy thuộc vào loại sản phẩm. Nhật Bản sẽ xóa bỏ 37,52% dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi trong thời gian từ 3-22 năm, để lại 61 (9%) dòng thuế áp hạn ngạch và 90 (14,68%) dòng thuế không giảm.

     

    Đối với EVFTA, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ ngay lập tức 31,82% số dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi; 6 dòng thuế áp dụng hạn ngạch (các sản phẩm gia cầm); số dòng thuế còn lại sẽ giảm về 0% sau 3 – 9 năm. Về phía các nước EU, họ cam kết sẽ xóa bỏ ngay lập tức 72% số dòng thuế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi từ Việt Nam khi thực thi EVFTA; 27% số dòng thuế về 0% sau 3 – 7 năm.

     

    TS Trần Công Thắng cho hay, Việt Nam nhập khẩu bò sống nhiều nhất từ Úc vừa làm giống vừa vỗ béo lấy thịt; nhập khẩu thịt cấp đông, thịt lọc không xương từ Úc, Mỹ. Thuế nhập khẩu thịt bò sẽ giảm trong 3-8 năm, khiến áp lực cạnh tranh đối với ngành chăn nuôi bò thịt nước ta sẽ đến rất sớm. Hiện Việt Nam nhập khẩu nhiều sữa bột từ Úc, New Zealand, nhập khẩu sữa, pho mát tươi từ Pháp. Khi thực thi CPTPP và EVFTA, việc thuế nhập khẩu từ khối CPTPP và thuế nhập khẩu EU giảm trong lộ trình 3 năm sẽ khiến sữa bột và các sản phẩm sữa trong nước phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh.

     

     Đối với chăn nuôi gia cầm, lượng gà sống và thịt gà nhập khẩu tăng nhanh trong những năm gần đây. Trong khối CPTPP, Việt Nam nhập khẩu gà sống và thịt, phụ phẩm từ 3 nước: Malaysia, Úc, New Zealand. Với khối EU, Việt Nam nhập khẩu gà sống từ Pháp, Anh, Hà Lan; nhập khẩu thịt gà từ Ba Lan, Pháp, Ý. Tuy nhiên, lộ trình giảm thuế đối với nhóm sản phẩm thịt gà lên tới 10-11 năm, nên ít tác động ngay.

     

     Đối với ngành lợn, khả năng xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Năm 2018, giao thương thịt lợn của thế giới lên tới 28,46 tỷ USD, trong khi xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam chỉ 44,866 triệu USD. Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu lợn sống từ khối CPTPP và EU chủ yếu chỉ để làm giống. Việt Nam có nhập thịt lợn từ Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hà Lan với những sản phẩm chủ yếu gồm thịt mông, thịt vai, đông lạnh.

     

    “Trong CPTPP, Việt Nam cam kết thuế nhập khẩu thịt lợn tươi hoặc ướp lạnh là 27%, xóa bỏ sau 10 năm; đối với thịt đông lạnh,  thuế suất 15%, xóa bỏ thuế sau 8 năm. Cam kết EVFTA, thuế nhập khẩu thịt lợn đông lạnh từ 22,5% sẽ về 0% sau 7 năm, thuế nhập khẩu lợn tươi sống từ 37,5% về 0% sau 9 năm. Dư địa giảm thuế nhập khẩu sản phẩm thịt lợn cao, nhưng lộ trình kéo dài 8-10 năm, khiến ngành hàng chăn nuôi lợn nước ta chịu thách thức trong dài hạn”, TS Trần Công Thắng nhận định.

     

    CHU MINH KHÔI

    TS TRẦN CÔNG THẮNG (VIỆN TRƯỞNG VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC, BỘ NN&PTNT) – ảnh:

    Doanh nghiệp chăn nuôi cần nâng cao năng lực cạnh tranh


    Các doanh nghiệp chăn nuôi nước ta cần xây dựng chuỗi liên kết, hỗ trợ hình thành HTX và tăng liên kết với doanh nghiệp, kiểm soát chất lượng theo chuỗi, đầu tư vào hệ thống phân phối để nâng cao năng lực cạnh tranh. Cùng với đó, cần tăng đầu tư vào công nghệ cao, vùng chuyên canh nguyên liệu, cải thiện chất lượng con giống, cải thiện kỹ thuật tăng năng suất, giảm giá thành. Các doanh nghiệp chăn nuôi cần tập trung vào chất lượng, an toàn thực phẩm, xây dựng hình ảnh sản phẩm của Việt Nam thông qua chủ động áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và các tiêu chuẩn hữu cơ.

     

    Ông Thắng kiến nghị Nhà nước cần cập nhật tốt các thông tin về quy định tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu của các nước. Đồng thời, Việt Nam cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu, bảo đảm hài hòa với thông lệ quốc tế để kiểm soát chất lượng nhập khẩu. Các chính sách về chăn nuôi cần hướng đến ưu tiên và phân bổ nguồn lực triển khai Nghị định 57, Nghị định 98 về liên kết, phát triển HTX; Nghị định 58 về bảo hiểm nông nghiệp, Nghị định 135 về hỗ trợ chuyển đổi nghề cho nông dân.

    Chu Khôi ghi

    Để lại comment của bạn

    Tin mới nhất

    T2,23/12/2024

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.