Sự tăng trưởng của heo non là một trong những chủ đề được nghiên cứu và thảo luận rộng rãi nhất đối với dinh dưỡng và sức khỏe của heo. Có vô số các vấn đề liên quan đến sự phát triển của heo non bất chấp những nỗ lực để vượt qua, các nhà sản xuất vẫn để mất đi tiềm năng tăng trưởng và tiền bạc.
- 5 chiến lược thức ăn để chống lại bệnh tiêu chảy heo con
- Nhận biết điểm nguy cơ đối với heo con
- Hạn chế tổn thất heo con trong kiểu chuồng mở
Nhìn chung, sức khỏe của heo non có mối liên hệ chặt chẽ với dinh dưỡng, và có rất nhiều yếu tố trong quá trình phát triển của heo non liên quan đến dinh dưỡng cần được xem xét. Yếu tố cân nhắc hàng đầu là nhu cầu dinh dưỡng, lượng ăn vào, tăng trưởng, khả năng miễn dịch và tỷ lệ chết trước khi cai sữa. Tiếp theo đó chúng ta có các chủ đề khác như tầm ảnh hưởng khẩu phần ăn của heo mẹ đối với sự phát triển của heo non, khả năng sinh lý tiêu hóa và kiểm soát quá trình chuyển đổi khẩu phần ăn. Không có khái niệm nào mới trong những khái niệm này, nhưng khi kết hợp lại chúng làm cho các yếu tố quản lý và dinh dưỡng ở heo non hoạt động cân bằng thận trọng, và bất kỳ sự cải thiện nhỏ nào trong những yếu tố này đều có thể mang heo non đến gần với tiềm năng di truyền của chúng hơn.
Trong chăn nuôi và dinh dưỡng ở heo non, hiếm khi chúng ta xem xét đến việc thức ăn heo nái mang thai ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi và heo non như thế nào. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung phức khoáng vi lượng vào khẩu phần heo nái không chỉ giúp tăng số lượng heo con sinh ra còn sống cứ ba heo con mỗi vòng đời của heo nái, mà còn tăng trọng lượng heo con sơ sinh lên đến 9% (Hình 1).
Trọng lượng sơ sinh thấp làm tăng tỷ lệ chết trước khi cai sữa và nhạy cảm với bệnh tiêu chảy. Trọng lượng sơ sinh thấp còn thể hiện chỉ số năng suất sau này của heo con kém, bao gồm tăng trọng trung bình hàng ngày. Theo tài liệu ghi nhận được cứ tăng 1 kg trọng lượng cơ thể lúc cai sữa dẫn đến tăng 2 kg ở cuối giai đoạn heo non và tăng 4 kg lúc xuất chuồng.
Hình 1 – Bổ sung phức khoáng vi lượng* trong khẩu phần heo nái giúp tăng trọng lượng heo con sơ sinh lên đến 9% so với nhóm đối chứng.
Sức khỏe đường tiêu hóa
Sức khỏe đường ruột thường chỉ được xem xét đến khi có triệu chứng rõ ràng, chẳng hạn như tiêu chảy, bởi vì hai vấn đề này rất dễ liên hệ với nhau. Các chiến lược thúc đẩy sức khỏe đường ruột cũng được cân nhắc kỹ lưỡng trong hoàn cảnh chất kích thích tăng trưởng kháng sinh bị hạn chế hoặc cấm sử dụng hoàn toàn. Các thách thức đối với sức khỏe đường ruột bao gồm hấp thu dinh dưỡng kém, hiệu suất tăng trưởng thấp, tiêu chảy, ức chế miễn dịch và tỷ lệ loại thải.
Cải thiện sức khỏe đường ruột cần phải tập trung vào các nút thắt như hệ vi sinh đường ruột mất cân bằng, hình thái đường ruột phù hợp cho sự hấp thụ dinh dưỡng và protein không được tiêu hóa ở ruột sau. Những thách thức này kết hợp lại dẫn đến sự phát triển vượt mức của vi khuẩn, năng suất giảm sút, bệnh tật, và sau cùng là những thách thức trong chăn nuôi ở mức lâm sàng. Ngày nay, có rất nhiều phụ gia thức ăn được sử dụng để tối ưu sức khỏe đường ruột, bao gồm các acid hữu cơ, enzyme và khoáng vi lượng.
Những thay đổi của khẩu phần ăn trong 80 ngày đầu tiên của vòng đời là một trải nghiệm lớn của heo non. Đường ruột được mong đợi sẽ kiểm soát được những thay đổi này, ngay cả khi áp dụng phương pháp thay đổi từng bước theo từng mức khẩu phần. Việc thay đổi rất quan trọng đối với hệ vi sinh đường ruột. Các vấn đề phát sinh thường nhanh chóng kết nối với vấn đề sức khỏe đường ruột, nhưng khi nhìn sâu hơn vào khả năng sinh lý tiêu hóa, có nhiều điều cần được tìm hiểu và thực hiện để kiểm soát quá trình chuyển đổi này cho heo con tốt hơn. Việc cai sữa làm giảm sản sinh protease nội sinh. Trong nhiều trường hợp, hệ số tiêu hoá không thể hiện chính xác chu kỳ heo con. Hình thái ruột thay đổi khi heo con lớn lên. Tất cả những điều này, khi được xem xét và quản lý cùng nhau, sẽ hỗ trợ việc quản lý sinh lý tiêu hóa, và cải thiện sức khỏe đường ruột.
Lượng ăn vào của heo con thường bị giới hạn và không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng để thể hiện tiềm năng di truyền của chúng. Có quá nhiều thách thức phải vượt qua – một khẩu phần hoàn toàn mới và cách ăn mới, stress trong bầy và môi trường, ăn để đạt được hết tiềm năng của chúng trong điều kiện chăn nuôi thương phẩm. Tốc độ tăng trưởng trong chu kỳ heo non là rất quan trọng, phải đạt được lượng ăn vào tối đa để heo tiêu thụ đủ nhu cầu về dinh dưỡng cho sự phát triển tối ưu. Tăng lượng ăn vào trong tuần đầu sau cai sữa không chỉ thúc đẩy tăng trưởng và sức khỏe tổng thể trong giai đoạn heo non, mà nó còn làm tăng năng suất trong suốt giai đoạn vỗ béo.
Giai đoạn chuyển tiếp
Mục tiêu chính của chương trình dinh dưỡng cho heo non nhằm tránh việc chậm phát triển sau cai sữa, giúp heo non thích nghi với khẩu phần bằng hạt, và làm cho quá trình chuyển đổi này xảy ra càng nhanh càng tốt. Vì heo non phải đối mặt với những thay đổi lớn trong quá trình phát triển của hệ tiêu hóa, giai đoạn cho ăn cần phải kết nối chặt chẽ với nhu cầu dinh dưỡng và khả năng tiêu hóa, để đạt được năng suất tối đa trong giai đoạn heo non. Giai đoạn cho ăn nhằm mục đích làm cho việc chuyển đổi từ loại thức ăn này sang loại thức ăn khác dễ dàng hơn đối với đường tiêu hoá của heo non. Các công cụ dinh dưỡng chẳng hạn như enzyme có thể giúp quá trình chuyển đổi này ở heo non diễn ra dễ dàng hơn. Đặc biệt là trong một vài giai đoạn cho ăn, các chiến lược dinh dưỡng này có thể giúp giảm thiểu việc thừa dinh dưỡng ở giai đoạn đầu nhưng thiếu hụt vào cuối mỗi giai đoạn, điều này có thể gây hại cho sức khỏe và quá trình phát triển.
Chi phí thức ăn chiếm 70-80% chi phí sản xuất. Thay đổi tỷ lệ tiêu hóa trong thành phần thức ăn của khẩu phần heo con có thể làm chi phí thức ăn tăng cao, gây hại cho sức khỏe và tăng trưởng. Sự kết nối giữa nhu cầu dinh dưỡng với việc cung cấp dinh dưỡng trong thức ăn càng chặt chẽ sẽ giúp giảm chi phí thức ăn, tăng cường sức khỏe và tăng trưởng tốt hơn. Cùng với việc xây dựng công thức khẩu phần phù hợp, bổ sung enzyme protease trong khẩu phần heo con giúp kiểm soát sự thay đổi tỷ lệ tiêu hoá chất dinh dưỡng, làm giảm chi phí sản xuất, tối đa cả tỷ lệ tiêu hóa lẫn tính khả dụng của chất dinh dưỡng nhằm cải thiện sức khỏe đường ruột ở heo con.
Khô dầu đậu nành (SBM) thường được dùng như nguồn protein chính trong khẩu phần cho heo. Trong khi một số protein trong SBM được tiêu hóa dễ dàng, thì một số khác lại khó tiêu hóa, đặc biệt đối với heo non mới cai sữa. Những protein thường gây ra các vấn đề cho heo con là glycinin, chiếm khoảng 40% tổng protein đậu nành, và β-conglycinin, chiếm khoảng 30% tổng protein. Protein đậu nành glycinin và β-conglycinin được phát hiện là thành phần kháng nguyên trong khoang ruột.
Cải thiện sự tăng trưởng
Dưới áp lực của người tiêu dùng, và những quy định bắt buộc trong một số trường hợp, để chấm dứt việc sử dụng chất kích thích tăng trưởng kháng sinh (AGPs), các nhà chăn nuôi heo phải tìm ra giải pháp thay thế để phục hồi tăng trưởng càng nhanh càng tốt đồng thời duy trì chi phí sản xuất. Các giải pháp thay thế cho AGPs như probiotic, enzyme, prebiotics và các acid hữu cơ có khả năng hỗ trợ năng suất vật nuôi tương tự như kháng sinh, nhưng không mang lại mối lo ngại như kháng sinh. Sẽ không có một loại chất duy nhất nào có thể thay thế AGPs, do đó cần áp dụng phương pháp đồng bộ đa yếu tố để cải thiện năng suất và tăng trưởng của heo con.
Có vô số các vấn đề gặp phải trong quá trình phát triển của heo con không dễ giải quyết, và nó sẽ ảnh hưởng lâu dài đến năng suất của heo và lợi nhuận của nhà sản xuất. Tuy nhiên, với sự hiểu biết sâu rộng về những thách thức sau cai sữa và mối liên hệ của chúng như thế nào, có thể áp dụng phương pháp đa yếu tố để cải thiện hiệu suất tăng trưởng của heo con.
Biên dịch: Acare Team (theo Pig Progress)
Nguồn tin: Acarevietnam
- 5 chiến lược thức ăn để chống lại bệnh tiêu chảy heo con
- Nhận biết điểm nguy cơ đối với heo con
- Hạn chế tổn thất heo con trong kiểu chuồng mở
- chăm sóc heo con li>
- giai đoạn đầu li> ul>
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
- Những lợi ích thực tế của bã bia trong thức ăn cho bò sữa
- Một sức khỏe – Cách tiếp cận toàn diện giúp cải thiện an toàn thực phẩm
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- “Chạy đua” xử lý các cơ sở chăn nuôi nằm ngoài vùng quy hoạch
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Bình Phước: Chuẩn bị heo thịt cho thị trường tết
- Đề xuất kéo dài miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất