Tìm hiểu về sự phát triển trong giai đoạn đầu của heo con - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Tìm hiểu về sự phát triển trong giai đoạn đầu của heo con

    Sự tăng trưởng của heo non là một trong những chủ đề được nghiên cứu và thảo luận rộng rãi nhất đối với dinh dưỡng và sức khỏe của heo. Có vô số các vấn đề liên quan đến sự phát triển của heo non bất chấp những nỗ lực để vượt qua, các nhà sản xuất vẫn để mất đi tiềm năng tăng trưởng và tiền bạc.

     

    Nhìn chung, sức khỏe của heo non có mối liên hệ chặt chẽ với dinh dưỡng, và có rất nhiều yếu tố trong quá trình phát triển của heo non liên quan đến dinh dưỡng cần được xem xét. Yếu tố cân nhắc hàng đầu là nhu cầu dinh dưỡng, lượng ăn vào, tăng trưởng, khả năng miễn dịch và tỷ lệ chết trước khi cai sữa. Tiếp theo đó chúng ta có các chủ đề khác như tầm ảnh hưởng khẩu phần ăn của heo mẹ đối với sự phát triển của heo non, khả năng sinh lý tiêu hóa và kiểm soát quá trình chuyển đổi khẩu phần ăn. Không có khái niệm nào mới trong những khái niệm này, nhưng khi kết hợp lại chúng làm cho các yếu tố quản lý và dinh dưỡng ở heo non hoạt động cân bằng thận trọng, và bất kỳ sự cải thiện nhỏ nào trong những yếu tố này đều có thể mang heo non đến gần với tiềm năng di truyền của chúng hơn.

     

    Trong chăn nuôi và dinh dưỡng ở heo non, hiếm khi chúng ta xem xét đến việc thức ăn heo nái mang thai ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi và heo non như thế nào. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung phức khoáng vi lượng vào khẩu phần heo nái không chỉ giúp tăng số lượng heo con sinh ra còn sống cứ ba heo con mỗi vòng đời của heo nái, mà còn tăng trọng lượng heo con sơ sinh lên đến 9% (Hình 1).

     

    Trọng lượng sơ sinh thấp làm tăng tỷ lệ chết trước khi cai sữa và nhạy cảm với bệnh tiêu chảy. Trọng lượng sơ sinh thấp còn thể hiện chỉ số năng suất sau này của heo con kém, bao gồm tăng trọng trung bình hàng ngày. Theo tài liệu ghi nhận được cứ tăng 1 kg trọng lượng cơ thể lúc cai sữa dẫn đến tăng 2 kg ở cuối giai đoạn heo non và tăng 4 kg lúc xuất chuồng.

     

    Hình 1 – Bổ sung phức khoáng vi lượng* trong khẩu phần heo nái giúp tăng trọng lượng heo con sơ sinh lên đến 9% so với nhóm đối chứng.

    Sức khỏe đường tiêu hóa

     

    Sức khỏe đường ruột thường chỉ được xem xét đến khi có triệu chứng rõ ràng, chẳng hạn như tiêu chảy, bởi vì hai vấn đề này rất dễ liên hệ với nhau. Các chiến lược thúc đẩy sức khỏe đường ruột cũng được cân nhắc kỹ lưỡng trong hoàn cảnh chất kích thích tăng trưởng kháng sinh bị hạn chế hoặc cấm sử dụng hoàn toàn. Các thách thức đối với sức khỏe đường ruột bao gồm hấp thu dinh dưỡng kém, hiệu suất tăng trưởng thấp, tiêu chảy, ức chế miễn dịch và tỷ lệ loại thải.

     

    Cải thiện sức khỏe đường ruột cần phải tập trung vào các nút thắt như hệ vi sinh đường ruột mất cân bằng, hình thái đường ruột phù hợp cho sự hấp thụ dinh dưỡng và protein không được tiêu hóa ở ruột sau. Những thách thức này kết hợp lại dẫn đến sự phát triển vượt mức của vi khuẩn, năng suất giảm sút, bệnh tật, và sau cùng là những thách thức trong chăn nuôi ở mức lâm sàng. Ngày nay, có rất nhiều phụ gia thức ăn được sử dụng để tối ưu sức khỏe đường ruột, bao gồm các acid hữu cơ, enzyme và khoáng vi lượng.

     

    Những thay đổi của khẩu phần ăn trong 80 ngày đầu tiên của vòng đời là một trải nghiệm lớn của heo non. Đường ruột được mong đợi sẽ kiểm soát được những thay đổi này, ngay cả khi áp dụng phương pháp thay đổi từng bước theo từng mức khẩu phần. Việc thay đổi rất quan trọng đối với hệ vi sinh đường ruột. Các vấn đề phát sinh thường nhanh chóng kết nối với vấn đề sức khỏe đường ruột, nhưng khi nhìn sâu hơn vào khả năng sinh lý tiêu hóa, có nhiều điều cần được tìm hiểu và thực hiện để kiểm soát quá trình chuyển đổi này cho heo con tốt hơn. Việc cai sữa làm giảm sản sinh protease nội sinh. Trong nhiều trường hợp, hệ số tiêu hoá không thể hiện chính xác chu kỳ heo con. Hình thái ruột thay đổi khi heo con lớn lên. Tất cả những điều này, khi được xem xét và quản lý cùng nhau, sẽ hỗ trợ việc quản lý sinh lý tiêu hóa, và cải thiện sức khỏe đường ruột.

     

    Lượng ăn vào của heo con thường bị giới hạn và không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng để thể hiện tiềm năng di truyền của chúng. Có quá nhiều thách thức phải vượt qua – một khẩu phần hoàn toàn mới và cách ăn mới, stress trong bầy và môi trường, ăn để đạt được hết tiềm năng của chúng trong điều kiện chăn nuôi thương phẩm. Tốc độ tăng trưởng trong chu kỳ heo non là rất quan trọng, phải đạt được lượng ăn vào tối đa để heo tiêu thụ đủ nhu cầu về dinh dưỡng cho sự phát triển tối ưu. Tăng lượng ăn vào trong tuần đầu sau cai sữa không chỉ thúc đẩy tăng trưởng và sức khỏe tổng thể trong giai đoạn heo non, mà nó còn làm tăng năng suất trong suốt giai đoạn vỗ béo.

     

    Giai đoạn chuyển tiếp

     

    Mục tiêu chính của chương trình dinh dưỡng cho heo non nhằm tránh việc chậm phát triển sau cai sữa, giúp heo non thích nghi với khẩu phần bằng hạt, và làm cho quá trình chuyển đổi này xảy ra càng nhanh càng tốt. Vì heo non phải đối mặt với những thay đổi lớn trong quá trình phát triển của hệ tiêu hóa, giai đoạn cho ăn cần phải kết nối chặt chẽ với nhu cầu dinh dưỡng và khả năng tiêu hóa, để đạt được năng suất tối đa trong giai đoạn heo non. Giai đoạn cho ăn nhằm mục đích làm cho việc chuyển đổi từ loại thức ăn này sang loại thức ăn khác dễ dàng hơn đối với đường tiêu hoá của heo non. Các công cụ dinh dưỡng chẳng hạn như enzyme có thể giúp quá trình chuyển đổi này ở heo non diễn ra dễ dàng hơn. Đặc biệt là trong một vài giai đoạn cho ăn, các chiến lược dinh dưỡng này có thể giúp giảm thiểu việc thừa dinh dưỡng ở giai đoạn đầu nhưng thiếu hụt vào cuối mỗi giai đoạn, điều này có thể gây hại cho sức khỏe và quá trình phát triển.

     

    Chi phí thức ăn chiếm 70-80% chi phí sản xuất. Thay đổi tỷ lệ tiêu hóa trong thành phần thức ăn của khẩu phần heo con có thể làm chi phí thức ăn tăng cao, gây hại cho sức khỏe và tăng trưởng. Sự kết nối giữa nhu cầu dinh dưỡng với việc cung cấp dinh dưỡng trong thức ăn càng chặt chẽ sẽ giúp giảm chi phí thức ăn, tăng cường sức khỏe và tăng trưởng tốt hơn. Cùng với việc xây dựng công thức khẩu phần phù hợp, bổ sung enzyme protease trong khẩu phần heo con giúp kiểm soát sự thay đổi tỷ lệ tiêu hoá chất dinh dưỡng, làm giảm chi phí sản xuất, tối đa cả tỷ lệ tiêu hóa lẫn tính khả dụng của chất dinh dưỡng nhằm cải thiện sức khỏe đường ruột ở heo con.

     

    Khô dầu đậu nành (SBM) thường được dùng như nguồn protein chính trong khẩu phần cho heo. Trong khi một số protein trong SBM được tiêu hóa dễ dàng, thì một số khác lại khó tiêu hóa, đặc biệt đối với heo non mới cai sữa. Những protein thường gây ra các vấn đề cho heo con là glycinin, chiếm khoảng 40% tổng protein đậu nành, và β-conglycinin, chiếm khoảng 30% tổng protein. Protein đậu nành glycinin và β-conglycinin được phát hiện là thành phần kháng nguyên trong khoang ruột.

     

    Cải thiện sự tăng trưởng

     

    Dưới áp lực của người tiêu dùng, và những quy định bắt buộc trong một số trường hợp, để chấm dứt việc sử dụng chất kích thích tăng trưởng kháng sinh (AGPs), các nhà chăn nuôi heo phải tìm ra giải pháp thay thế để phục hồi tăng trưởng càng nhanh càng tốt đồng thời duy trì chi phí sản xuất. Các giải pháp thay thế cho AGPs như probiotic, enzyme, prebiotics và các acid hữu cơ có khả năng hỗ trợ năng suất vật nuôi tương tự như kháng sinh, nhưng không mang lại mối lo ngại như kháng sinh. Sẽ không có một loại chất duy nhất nào có thể thay thế AGPs, do đó cần áp dụng phương pháp đồng bộ đa yếu tố để cải thiện năng suất và tăng trưởng của heo con.

     

    Có vô số các vấn đề gặp phải trong quá trình phát triển của heo con không dễ giải quyết, và nó sẽ ảnh hưởng lâu dài đến năng suất của heo và lợi nhuận của nhà sản xuất. Tuy nhiên, với sự hiểu biết sâu rộng về những thách thức sau cai sữa và mối liên hệ của chúng như thế nào, có thể áp dụng phương pháp đa yếu tố để cải thiện hiệu suất tăng trưởng của heo con.

     

    Biên dịch: Acare Team (theo Pig Progress)

    Nguồn tin: Acarevietnam

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.