Kích thước trứng có liên quan chặt chẽ với tuổi của gà mái – gà nuôi càng lâu thì trứng càng lớn, nhưng vẫn còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng khác có thể tác động đến. Mọi khía cạnh quản lý trong sản xuất trứng đều có thể tác động đến kích thước của trứng, trong đó khối lượng cơ thể và dinh dưỡng là hai vấn đề có sức ảnh hưởng lớn nhất.
Một số loài gia cầm có kiểu gen dễ bị mắc bệnh hơn so với những con khác, nó cũng có thể liên quan đến lượng ăn vào và điều này sẽ ảnh hưởng đến kích thước trứng. Vì vậy các nhà chăn nuôi phải xem xét mọi mặt về các giống gà mà mình đang nuôi. Ví dụ các con gà mái nâu sẽ nặng hơn gà mái trắng, vì vậy chúng sẽ sản xuất ra những quả trứng lớn hơn.
Khối lượng cơ thể là một chỉ số quan trọng cho sự thành công trong suốt giai đoạn sản xuất trứng, đặc biệt là trong giai đoạn nuôi. Nó chỉ ra dấu hiệu về thời điểm chuyển đổi thức ăn theo nhu cầu sinh lý và sự hình thành xương.
Khối lượng cơ thể của gà đẻ cũng có thể tác động đến kích thước trứng trong toàn bộ thời gian sản xuất. Một nguyên tắc nhỏ được thiết lập đó là khối lượng cơ thể cứ giảm 100 gram thì kích thước trứng sẽ giảm 0,8 đến 1 gram.
Khối lượng cơ thể lúc bắt đầu sản xuất trứng có thể điều chỉnh trọng lượng quả trứng trong chu kỳ đẻ, và gà mái nặng cân hơn sẽ đẻ trứng nặng hơn.
Kích thích ánh sáng là một công cụ quan trọng giúp thúc đẩy sự thành thục giới tính và kích thước trứng. Một chương trình giảm ánh sáng một cách từ từ trong giai đoạn nuôi đã làm cho các con gà mái tơ có nhiều thời gian ăn nhẹ hơn và phát triển hơn, làm chậm sự thành thục và dẫn đến kích thước trứng lớn hơn. Chương trình giảm sáng nhanh sẽ làm giờ chiếu ánh sáng ít hơn dẫn đến tốc độ tăng trưởng chậm hơn, thúc đẩy sự thành thục giới tính sớm hơn dẫn đến kích thước trứng sẽ nhỏ hơn.
Để xác định điểm khởi đầu của việc sản xuất trứng, cả về độ tuổi mà kích thích ánh sáng xảy ra và khối lượng cơ thể cần phải được xem xét vì chúng đóng một vai trò quan trọng trong sự thành thục của cơ quan sinh sản. Khi gà mái nuôi lâu, chúng sẽ đẻ trứng lớn hơn và kích thước trứng thường tỷ lệ nghịch với số lượng trứng đẻ. Gà mái bắt đầu sản xuất trứng càng nhanh, thì tổng số trứng vào cuối chu kỳ đẻ càng lớn.
Dinh dưỡng
Các con gà đẻ phải đối mặt với giai đoạn stress nhiệt làm ảnh hưởng đến lượng ăn vào của chúng và cuối cùng đạt đến kích thước trứng mong muốn.
Bất kỳ vấn đề nào làm thay đổi lượng thức ăn ăn vào đều ảnh hưởng đến khối lượng trứng. Ví dụ, trong một môi trường sống mát mẻ hoặc trong các hệ thống chăn nuôi không lồng thì nhu cầu năng lượng được tăng lên và gia cầm cần bù đắp bằng cách ăn nhiều hơn. Ý nghĩa của việc tăng lượng ăn vào chính là tăng lượng dinh dưỡng, đặc biệt là protein (axit amin), có ảnh hưởng lớn hơn đến kích thước trứng so với lượng năng lượng tiêu thụ.
Gà mái nuôi trong thời gian dài sẽ có chất lượng vỏ trứng giảm do sự hấp thụ canxi thấp hơn và kích thước trứng lớn hơn. Khối lượng vỏ trứng tương đối ổn định trong một độ tuổi của gà mái, do đó khi lượng canxi của vỏ trứng không đổi mà trứng càng lớn thì sẽ dẫn đến vỡ vỏ trứng vì vào giai đoạn sau vỏ trứng sẽ yếu hơn.
Ở một mức độ nào đó, việc giảm protein thô trong khẩu phần, được cân bằng thông qua các axit amin thiết yếu theo protein lý tưởng, là một công cụ tốt để ngăn chặn tình trạng trứng siêu lớn, hay trứng siêu to vào giai đoạn sau của chu kỳ sản xuất. Nhu cầu của gà đẻ giảm do sản lượng trứng giảm tự nhiên. Cần bổ sung thêm protein vào khẩu phần khi khối lượng trứng giảm vì gà mái càng lớn thì chúng cần dinh dưỡng để duy trì và tăng khối lượng trứng.
Không thay đổi methionine
Dựa trên hầu hết các nghiên cứu về axit amin đối với gà đẻ thì chỉ tiêu khối lượng trứng bị ảnh hưởng bởi axit amin trong khẩu phần hơn là số lượng trứng được tạo ra.
Gà mái đạt tỷ lệ đẻ tối đa ở mức tiêu thụ axit amin thấp hơn nhiều so với khối lượng trứng tối đa. Các con gà đẻ cần một lượng methionine + cysteine và lysine cao hơn nhiều để đạt được khối lượng trứng tối đa, trong khi threonine và tryptophan không có tác dụng đáng kể so với tỷ lệ đẻ tối đa. Mặt khác, threonine và tryptophan có tác động mạnh hơn đối với tỷ lệ đẻ so với lysine và methionine + cysteine thì có tác dụng vừa phải.
Methionine là axit amin giới hạn đầu tiên đối với gà đẻ, và khi giảm bổ sung Methionine sẽ dẫn đến giảm kích thước trứng và làm trì trệ việc sản xuất.
Do đó, việc thay đổi mức độ bổ sung Methionine hoặc mức khuyến cáo là rất rủi ro, đặc biệt là khi khẩu phần đang tuân theo protein lý tưởng.
Các tỷ lệ phải được duy trì vĩnh viễn, nếu không, khái niệm protein cân bằng sẽ bị đánh mất. Do đó, nên kiểm soát thành phần protein lý tưởng để điều chỉnh mức độ lysine duy trì tỷ lệ axit amin lý tưởng. Đơn giản chỉ cần giảm mức protein thô trong khẩu phần gà đẻ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bổ sung một gram protein hàng ngày sẽ làm tăng khối lượng trứng trung bình 1,4 g.
Tương quan giữa cân nặng của gà đẻ trong các giai đoạn nuôi và sản xuất trứng
Sự phân chia đàn |
KL gà mái, g |
Số trứng |
Khối lượng trứng |
Thức ăn/ngày |
Tổng lượng trứng/g |
|||
8 tuần |
Sớm |
Trung bình |
Muộn |
TB |
Sau |
|||
Nhóm 1 |
1,346 |
34 |
115 |
111 |
59,9 |
63,4 |
114 |
22,7 |
Nhóm 2 |
1,249 |
34 |
115 |
111 |
58,8 |
62,3 |
112 |
22,3 |
Nhóm 3 |
1,182 |
34 |
116 |
110 |
58,3 |
61,7 |
109 |
22,1 |
Nhóm 4 |
1,071 |
32 |
116 |
108 |
57,8 |
60,9 |
107 |
21,5 |
Phân bố |
275 |
-2 |
1 |
-3 |
-2 |
-2,5 |
-7 |
-1,2 |
Theo: Preisinger, IEC 2018
Xác định được khối lượng cơ thể tại lúc bắt đầu sản xuất trứng có thể điều chỉnh khối lượng trứng trong cả chu kỳ đẻ, và gà mái nặng cân hơn sẽ đẻ trứng nặng hơn.
Biên dịch: Ecovet Team (theo PoultryInternational)
Nguồn: Ecovet
- gà đẻ trứng li>
- nuôi gà đẻ trứng li>
- dinh dưỡng của gà đẻ li>
- kích thước trứng li> ul>
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
- Những lợi ích thực tế của bã bia trong thức ăn cho bò sữa
- Một sức khỏe – Cách tiếp cận toàn diện giúp cải thiện an toàn thực phẩm
- Thị trường nguyên liệu thức ăn cho thú cưng: Đa dạng và chất lượng
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất