Chim cút nuôi lấy thịt và nuôi lấy trứng, đáp ứng với việc bổ sung lysine trong khẩu phần của chúng như thế nào? Một nhóm các nhà nghiên cứu Brazil đã chỉ ra.
Sản xuất chim cút đã có tầm quan trọng trên toàn thế giới trong thập kỷ qua vì tiềm năng sản xuất trứng của những con chim cút này. Hiện tại, các trang trại lớn của Brazil nuôi hơn 100.000 con chim cút trong các hệ thống sản xuất tự động đảm bảo nguồn cung cấp trứng thường xuyên với chất lượng tốt cho thị trường. Mặt khác, các nhà nghiên cứu thường bỏ qua các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của chim cút. Việc thiếu kiến thức kỹ thuật này dẫn đến việc giảm sử dụng chất dinh dưỡng, tăng chi phí sản xuất và giảm lợi nhuận tiềm năng.
Nhu cầu về lysine của chim cút
Lysine (Lys) thường được sử dụng làm axit amin tham chiếu và các axit amin khác được biểu thị theo tỷ lệ so với Lys (tức là tỷ lệ AA: Lys). Đương nhiên, các mô hình dựa trên khái niệm này sẽ chỉ hoạt động bắt đầu từ ước tính chính xác các nhu cầu về Lys. Tuy nhiên, chỉ có vài nghiên cứu về đáp ứng của chim cút với lượng axit amin ăn vào, chẳng hạn như lysine. Các nhà nghiên cứu tại Khoa Khoa học Động vật từ Đại học Estadual Paulista (UNESP) ở Brazil do đó đã thiết lập một nghiên cứu để làm sáng tỏ các vấn đề sau:
– Để xác định một khoảng thời gian thích ứng tối ưu cho các nghiên cứu về nhu cầu Lys của chim cút
– Để ước tính các nhu cầu duy trì cho Lys
– Để xác định hiệu quả sử dụng Lys
– Để xác định các nhu cầu cho sản lượng trứng của chim cút.
Các nghiên cứu được thực hiện theo mô hình bố trí khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, với 7 mức Lysine (Lys) (2,6 đến 13,0 g / kg) và 7 lần lặp lại với 7 con chim cút mỗi lồng. Mức thứ 8 được đưa vào để xác nhận rằng Lys thực sự là axit amin giới hạn đầu tiên trong protein khẩu phần. Thí nghiệm bắt đầu ở 14 tuần tuổi, khi sản lượng trứng cao nhất và kết thúc sau 10 tuần thu thập dữ liệu. Các biến được phân tích là lượng ăn (FI), lượng Lys, trọng lượng cơ thể (BW), sản lượng trứng (EP), trọng lượng trứng (EW), tăng trọng và tiêu tốn thức ăn cho 1 quả trứng (EO, g / g).
Lượng lysine ăn vào trung bình (sai số chuẩn), lượng ăn, sản lượng trứng, khối lượng trứng, khối lượng cơ thể và tăng trọng của chim cút tương ứng với các mức lysine tiêu hóa khác nhau trong khẩu phần.
a: KP đối trứng = Mức đầu tiên + 2,6 L-Lys hoặc 3,33 g L-Lysine HCl 78% (3,33 = 2,6 / 0,78)
Lysine ăn vào (mg/ngày) | Lượng ăn vào (g/con ngày) | Tỷ lệ đẻ (%) | KL trứng (g) | KL cơ thể (kg) | Tăng trọng (kg) | |
2.6 | 30,02 | 11,1 | 2,5 | 7,2 | 0,106 | -0,061 |
5.2 | 83,7 | 16,5 | 33,88 | 8,2 | 0,134 | -0,031 |
6.5 | 120,93 | 20,4 | 58,83 | 8,7 | 0,147 | -0,019 |
7.8 | 162,7 | 22,1 | 75,43 | 9,42 | 0,164 | -0,002 |
10.4 | 238,65 | 23,3 | 85,47 | 10,7 | 0,166 | 0 |
11.2 | 268,1 | 24 | 86,37 | 11,2 | 0,175 | 0,006 |
13 | 307,96 | 24,5 | 86,82 | 11,03 | 0,178 | 0,012 |
2.6 (+2.6)a | 67,53 | 13,6 | 6,02 | 7,67 | 0,123 | -0,053 |
Nhu cầu được thiết lập ở mức 21 mg / g
Kết quả cho thấy 3 tuần thích nghi và 4 tuần thời gian thu thập dữ liệu là đủ để chim cút thích nghi và ổn định đáp ứng của chúng với khẩu phần thử nghiệm. Các đáp ứng của chim cút đối với lượng Lys được đánh giá bằng phân tích dòng bị hỏng (broken line analysis)và các nhu cầu của Lys đối với duy trì và EO được ước tính bằng hàm đơn phân tử (monomolecular function).
Các đáp ứng của chim cút đối với lượng Lys và, nhu cầu của Lys đối với việc duy trì và EO được ước tính tương ứng là 156 mg / BWkg0,75 mỗi ngày và tương ứng với 21 mg / g. Với những kết quả này, các chuyên gia dinh dưỡng được cung cấp các cách thức (xác định thời gian thích ứng tối ưu cho nghiên cứu axit amin với chim cút) và phương pháp (sử dụng kỹ thuật pha loãng để xác định yêu cầu Lys cho duy trì và hiệu quả sử dụng) được thiết kế cho chim cút và cũng là một mô hình đơn giản và linh hoạt có thể nhanh chóng được chấp nhận bởi các nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các nghiên cứu trong tương lai nên cải thiện các hệ số (mg Lys cần thiết cho EO và BW) được đề xuất trong nghiên cứu này, đặc biệt là các nhu cầu cho duy trì.
Biên dịch: Acare VN Team
(theo AllAboutFeed)
Nguồn: Acare VN
- nuôi chim cút li>
- Nhu cầu lysine li> ul>
- An toàn sinh học: Chú ý lối đi trong trang trại
- Một số giống lợn nội của Việt Nam (P2)
- “The Alltech One Ideas Forum” – nơi khám phá những ý tưởng mới trong nông nghiệp
- Ngành chăn nuôi Việt Nam cần nâng cao tính cạnh tranh hơn nữa
- Cổ phiếu Vissan “bốc hơi” khiến Anco lỗ nặng
- Nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam: Tập đoàn gà
- Giải pháp thay thế kháng sinh hướng đến mục tiêu vì sức khỏe cộng đồng
- Bò giống hỗ trợ hộ nghèo không đảm bảo chất lượng
- Giới thiệu một số giống lợn ngoại
- Tình hình nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
Tin mới nhất
T3,19/11/2024
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 11 năm 2024
- Anh xác nhận cúm gia cầm H5N1 ở một trại nuôi gia cầm thương mại
- Nuôi chim có lông 7 màu được cấp mã nuôi động vật quý hiếm
- Bổ sung sắt uống để phòng ngừa thiếu máu ở heo con sơ sinh
- Theo mùa vịt chạy đồng
- JBS – Tập đoàn sản xuất thịt hàng đầu thế giới muốn lựa chọn Việt Nam trở thành địa bàn chiến lược
- Tuyên Quang: Ra mắt Chi hội Nông dân nghề nghiệp chăn nuôi lợn đen sinh sản xã Hùng Lợi
- Rối loạn chất lượng thịt ức ở gà thịt hiện đại
- 13.624 khách tham quan triển lãm Vietstock 2024 và Aquaculture Vietnam 2024
- An Giang: Nuôi bò thịt theo hướng tuần hoàn, lợi nhuận tăng 29%
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
- Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết
Bình luận mới nhất