[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Giá nhập khẩu trung bình nhiều mặt hàng TACN&NL trong tháng 10/2022 giảm so với tháng trước như: Khô đậu tương, DDGS, bột thịt xương, bột gia cầm, bột cá, khô hạt cải, bột lông vũ…
- Nhập khẩu bột thịt xương từ EU tăng mạnh
- Giá thức ăn chăn nuôi thế giới trong tuần từ ngày 15-23/11/2022
- Nhập khẩu đậu tương đạt trên 1 tỷ USD
- Tình hình chăn nuôi 9 tháng đầu năm 2022
1.Thế giới:
USDA đã đưa ra dự báo mới nhất về cung cầu khô hạt có dầu toàn cầu trong niên vụ 2022/23, theo đó, sản lượng đạt 365,8 triệu tấn, giảm 0,2 triệu tấn so với dự báo trước nhưng tăng 15,6 triệu tấn so với niên vụ 2021/22.
Trong đó, sản lượng khô hạt có dầu tại Trung Quốc đạt mức cao nhất là 95,2 triệu tấn, tương đương với dự báo trước và tăng 6,7 triệu tấn so với niên vụ 2020/21.
Sản lượng khô hạt có dầu của Mỹ đạt 50,5 triệu tấn, tăng 0,2 triệu tấn so với dự báo trước và tăng 1,2 triệu tấn so với niên vụ trước.
Sản lượng khô hạt có dầu của Braxin và Achentina lần lượt đạt 42,3 triệu tấn và 32,7 triệu tấn, tăng 0,8 triệu tấn và 0,9 triệu tấn so với niên vụ trước. Sản lượng khô hạt có dầu của EU đạt 31,7 triệu tấn, tăng 0,9 triệu tấn so với niên vụ trước.
Lượng khô hạt có dầu tồn kho cuối kỳ toàn cầu niên vụ 2022/23 dự kiến đạt 18,9 triệu tấn, giảm 0,2 triệu tấn so với dự báo trước nhưng tăng 1,5 triệu tấn so với niên vụ trƣớc. Trong đó, tồn kho khô hạt có dầu của Achentina đạt 3 triệu tấn, tăng nhẹ so với niên vụ trước; Tồn kho của Braxin đạt 3,9 triệu tấn, tăng 0,2 triệu tấn so với niên vụ trước…
Dự kiến nhu cầu nhập khẩu khô hạt có dầu của thế giới niên vụ 2022/23 đạt 91,4 triệu tấn, tương đương với dự báo trước nhưng tăng 0,7 triệu tấn so với niên vụ trước.
Lượng xuất khẩu khô hạt có dầu của thế giới đạt 97,7 triệu tấn, tương đương với dự báo trước và tăng 2,2 triệu tấn so với niên vụ 2021/22.
Dự kiến nhu cầu tiêu thụ khô hạt có dầu của thế giới niên vụ 2022/23 đạt 358 triệu tấn, tăng 0,3 triệu tấn so với dự báo trước và tăng 12 triệu tấn so với niên vụ trước do nhu cầu tiêu thụ làm thức ăn chăn nuôi tại một số quốc gia như: Trung Quốc, Mỹ, Braxin… tăng.
2. Trong nước:
Theo ước tính, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL về Việt Nam trong tháng 11/2022 đạt 650 triệu USD, tăng 61,7% so với tháng trước và tăng 78,4% so với tháng 11/2021. Tính chung 11 tháng năm 2022, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL ước đạt 5,16 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2021.
Theo số liệu thống kê sơ bộ, lƣợng nhập khẩu TACN&NL về Việt Nam trong tháng 10/2022 đạt 750,2 nghìn tấn, trị giá 402,1 triệu USD, tăng 3,5% về lượng nhưng giảm 2,3% về trị giá so với tháng trước, giảm 13,8% về lượng nhưng tăng 3,1% về trị giá so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lƣợng nhập khẩu TACN&NL đạt 8,28 triệu tấn, trị giá 4,51 tỷ USD, giảm 5% về lượng nhưng tăng 9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Dự kiến lượng nhập khẩu nhóm hàng TACN&NL về Việt Nam năm 2022 đạt gần 10 triệu tấn, trị giá 5,4 tỷ USD, giảm 4% về lượng nhưng tăng 8% về trị giá so với năm 2021.
Trong tháng 10/2022, Việt Nam nhập khẩu 27 chủng loại TACN&NL, tăng 1 chủng loại so với tháng trước. Lượng nhập khẩu một số chủng loại giảm mạnh so với tháng trước như: DDGS, bột gia cầm, bột lông vũ…
Trong khi đó, lượng nhập khẩu một số chủng loại tăng mạnh so tháng trước như: Chất tổng hợp, khô dầu cọ, khô hạt cải, cám gạo, cám ngô…
Giá nhập khẩu trung bình nhiều mặt hàng TACN&NL trong tháng 10/2022 giảm so với tháng trước như: Khô đậu tương, DDGS, bột thịt xương, bột gia cầm, bột cá, khô hạt cải, bột lông vũ … Giá nhập khẩu một số chủng loại tăng so với tháng trước như: Cám mỳ, khô dầu cọ, bột gan mực…
+ Nhóm khô hạt có dầu:
Mặt hàng khô đậu tương:
Lượng nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam trong tháng 10/2022 đạt 307,6 nghìn tấn, trị giá 180,7 triệu USD, giảm 2,6% về lƣợng và giảm 3,9% về trị giá so với tháng trước, giảm 23,7% về lƣợng và giảm 4,4% về trị giá so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam đạt 3,94 triệu tấn, trị giá 2,22 tỷ USD, giảm 7,1% về lượng nhưng tăng 4,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 47,6% về lƣợng và 49,2% về trị giá trong tổng nhập khẩu TACN&NL về Việt Nam.
Thị trường cung cấp chính khô đậu tương là Nam Mỹ và Mỹ. Giá nhập khẩu trung bình khô đậu tương trong tháng 10/2022 ở mức 587 USD/tấn, giảm 1,4% so với tháng trước nhưng tăng 25,2% so với tháng 10/2021.
Lượng nhập khẩu khô đậu tương về Việt Nam trong năm 2022 dự kiến đạt 4,7 triệu tấn, trị giá 2,65 tỷ USD, giảm 6% về lượng nhưng tăng 6% về trị giá so với năm 2021.
Khô dầu cọ:
Lượng nhập khẩu khô dầu cọ tăng mạnh trong tháng 10/2022, đạt 61,1 nghìn tấn, trị giá 10,5 triệu USD, tăng 49,1% về lƣợng và tăng 54% về trị giá so với tháng trước, giảm 4,8% về lượng và giảm 16,8% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trong tháng 10/2022 đạt 171 USD/tấn, tăng 3,3% so với tháng trước nhưng giảm 12,6% so với tháng 10/2021.
Tính chung 10 tháng năm 2022, lƣợng nhập khẩu mặt hàng khô dầu cọ đạt 469,5 nghìn tấn, trị giá 101,1 triệu USD, giảm 8,2% về lượng nhưng tăng 6,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính mặt hàng khô dầu cọ là Indonesia (đạt 421,3 nghìn tấn) và Malaysia (đạt 27,4 nghìn tấn).
Mặt hàng khô hạt cải:
Lượng nhập khẩu khô hạt cải trong tháng 10/2022 đạt 22,1 nghìn tấn, trị giá 7,1 triệu USD, tăng 34% về lượng và tăng 28,7% về trị giá so với tháng trước, tăng 84,4% về lượng và tăng 58,4% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trong tháng 10/2022 đạt 321 USD/tấn, giảm 3,9% so với tháng trước và giảm 14,1% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng khô hạt cải đạt 215,6 nghìn tấn, trị giá 83,1 triệu USD, giảm 15,8% về lượng và giảm 7,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính mặt hàng khô hạt cải là Ấn Độ, UAE, Pakixtan…
+ Nhóm bột protein thực vật:
Trong tháng 10/2022, lượng nhập khẩu DDGS đạt 118,3 nghìn tấn, trị giá 43,6 triệu USD, giảm 20,4% về lượng và giảm 27,4% về trị giá so với tháng trước, giảm 16,6% về lượng và giảm 3,8% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trung bình DDGS trong tháng 10/2022 ở mức 368 USD/tấn, giảm 8,8% so với tháng trước nhưng tăng 15,3% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng DDGS đạt 1,12 triệu tấn, trị giá 418,5 triệu USD, tăng 0,8% về lượng và tăng 21,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Nhập khẩu DDGS trong 10 tháng năm 2022 chiếm 13,5% về lượng và 9,3% về trị giá trong tổng lượng TACN&NL nhập khẩu về Việt Nam. Thị trƣờng cung cấp chính là Mỹ.
Trong tháng 10/2022, lượng nhập khẩu cám gạo tăng mạnh trong tháng 10/2022, đạt 24 nghìn tấn, trị giá 5,8 triệu USD, tăng 125,1% về lượng và tăng 125,2% về trị giá so với tháng trước, giảm 64,1% về lượng và giảm 55,8% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trung bình cám gạo trong tháng 10/2022 ở mức 241 USD/tấn, tương đương với tháng trƣớc và tăng 23,2% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng cám gạo đạt 474 nghìn tấn, trị giá 101,9 triệu USD, tăng 1,8% về lượng và tăng 23,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính mặt hàng này là Ấn Độ.
Lượng nhập khẩu cám ngô trong tháng 10/2022 cũng tăng mạnh, đạt 20,2 nghìn tấn, trị giá 4,9 triệu USD, tăng 67,5% về lượng và tăng 66,2% về trị giá so với tháng trước, tăng 53,7% về lượng và tăng 41,4% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá trung bình cám ngô nhập khẩu về Việt Nam trong tháng 10/2022 đạt 244 USD/tấn, giảm 0,8% so với tháng trước và giảm 8% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng cám ngô đạt 128,7 nghìn tấn, trị giá 39 triệu USD, tăng 6,2% về lượng và tăng 23,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thị trƣờng cung cấp chính là Trung Quốc và Ấn Độ.
Trong tháng 10/2022, lượng nhập khẩu cám mỳ đạt 33,4 nghìn tấn, giảm 6,8% so với tháng trước và giảm 21,6% so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trung bình cám mỳ trong tháng 10/2022 ở mức 289 USD/tấn, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 14,9% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng cám mỳ đạt 322,1 nghìn tấn, giảm 16,9% so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính mặt hàng này là Tanzania, Indonesia…
+ Nhóm bột protein động vật:
Trong tháng 10/2022, lượng nhập khẩu bột thịt xương đạt 59,6 nghìn tấn, trị giá 33,7 triệu USD, giảm 1,2% về lượng và giảm 3,4% về trị giá so với tháng trước, nhưng tăng 28,4% về lượng và tăng 38,3% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trung bình bột thịt xương trong tháng 10/2022 ở mức 565 USD/tấn, giảm 2,2% so với tháng trước nhưng tăng 7,8% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng bột thịt xương đạt 658 nghìn tấn, trị giá 364,7 nghìn tấn, tăng 17,1% về lượng và tăng 33,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường chính cung cấp bột thịt xương là Mỹ và EU.
Nhập khẩu bột gia cầm trong tháng 10/2022 đạt 20,3 nghìn tấn, trị giá 19,5 triệu USD, giảm 17,4% về lượng và giảm 20,9% về trị giá so với tháng trước, nhưng tăng 62,2% về lượng và tăng 68,5% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trung bình bột gia cầm trong tháng 10/2022 ở mức 961 USD/tấn, giảm 4,3% so với tháng trước nhưng tăng 3,9% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng bột gia cầm đạt 191,6 nghìn tấn, trị giá 182,4 triệu USD, tăng 8,1% về lượng và tăng 21% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính mặt hàng này là Mỹ, Braxin, Ả Rập Xê Út…
Nhập khẩu bột cá trong tháng 10/2022 đạt 10,7 nghìn tấn, giảm 1,6% so với tháng trước nhưng tăng 5,3% về trị giá so với tháng 10/2021. Giá nhập khẩu trung bình bột cá trong tháng 10/2022 ở mức 1.522 USD/tấn, giảm 4,4% so với tháng trước nhưng tăng 18,3% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng bột cá đạt 100,6 nghìn tấn, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính mặt hàng này là Ấn Độ, Ôman, Pêru…
+ Nhóm chất tổng hợp và bổ trợ (CTH&BT):
Trong tháng 10/2022, kim ngạch nhập khẩu nhóm CTH&BT đạt 49,6 triệu USD, tăng 42,2% so với tháng trước và tăng 16,2% so với tháng 10/2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, nhập khẩu CTH&BT đạt 458,8 triệu USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường cung cấp chính là Châu Á (Trung Quốc, Thái Lan…).
t/h
- nhập khẩu thức ăn li>
- nhập khẩu TACN&NL li> ul>
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Tập đoàn Nhật Sojitz khai trương nhà máy chế biến thịt bò mát 10.000 tấn tại Tam Đảo
Tin mới nhất
T2,23/12/2024
- Áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo là tương lai của ngành chăn nuôi
- Vemedim tổ chức khóa học chẩn đoán và điều trị chuyên sâu về hô hấp phức hợp trên chó mèo
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 12 năm 2024
- Hòa Bình: Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 31% tỷ trọng ngành nông nghiệp
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bình Định: Công ty Vĩnh Quang đầu tư trang trại chăn nuôi heo tại huyện Vĩnh Thạnh
- Ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng và những tác động có thể ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi Việt Nam
- Thoát nghèo bền vững nhờ nuôi bò sinh sản
- Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2024 tăng khối lượng, giảm trị giá
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Bình luận mới nhất