Australia hỗ trợ Việt Nam tăng năng lực nghiên cứu khoa học về nông nghiệp - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 62.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Thái Bình, Phú Thọ 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 61.000 - 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 61.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 63.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Tiền Giang, Trà Vinh 61.000 đ/kg
    •  
  • Australia hỗ trợ Việt Nam tăng năng lực nghiên cứu khoa học về nông nghiệp
    Chiều 7/5, Bộ NN&PTNT và Trung tâm nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia (ACIAR) đồng tổ chức Họp đối tác 2024: Hợp tác nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam – ACIAR để thảo luận về chiến lược hợp tác và các ưu tiên nghiên cứu thời gian tới.
     

    Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) mong muốn hợp tác chặt chẽ với ACIAR (Australia) để lên kế hoạch cho việc tăng cường năng lực nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó đạt được mục tiêu của Việt Nam về tăng trưởng xanh.

    Đại sứ Andrew Goledzinowski phát biểu tại sự kiện. Ảnh: Lê Hồng Nhung/Mekong ASEAN

     

    Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ NN&PTNT và ACIAR đã được ký kết tháng 3/2024 là khuôn khổ quan trọng để hai bên tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học trong phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.

     

    “Chúng tôi mong muốn hợp tác chặt chẽ với ACIAR để lên kế hoạch cho việc tăng cường năng lực nghiên cứu và cho các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp mang tính quy mô và chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu của Việt Nam về tăng trưởng xanh, phát triển nền nông nghiệp đa giá trị, đồng thời đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân,” ông Phùng Đức Tiến nói.

     

    Với gần 100 triệu dân và 2/3 diện tích đất nước là đồi núi, dù hàng năm phải đối mặt với nhiều thiên tai, dịch bệnh nhưng đến hiện tại Việt Nam đã tự chủ được lương thực, thực phẩm, hướng đến xuất khẩu. Trong nhiều năm, Việt Nam là quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo và nhiều nông sản có giá trị tỷ USD.

     

    Về phía Đại sứ quán Australia tại Việt Nam, Đại sứ Andrew Goledzinowski cho biết, hiện tại nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế vô cùng quan trọng của Việt Nam và Australia. Tầm quan trọng của ngành không chỉ nằm ở doanh thu mà còn liên quan đến văn hóa.

     

    Nông nghiệp đóng vai trò cốt yếu, tác động đến sự thịnh vượng của khu vực nông thôn. Bởi nếu thành phố có thể thay thế ngành kinh tế này bằng ngành kinh tế khác thì khu vực nông thôn người dân phải bám vào đất để sinh kế, Đại sứ Andrew Goledzinowski nói.

     

    “Việt Nam và Australia đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện của nhau và ACIAR sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu về phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua hợp tác nghiên cứu hiệu quả,” Đại sứ Andrew Goledzinowski phát biểu tại sự kiện.

    Cuộc họp đối tác 2024 về hợp tác nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam – Australia

     

    Những định hướng nghiên cứu của ngành nông nghiệp Việt Nam

     

    Chia sẻ tại sự kiện, TS Nguyễn Thị Thanh Thủy – Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ NN&PTNT giới thiệu về 5 lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt quan trọng đối với nông nghiệp Việt Nam, bao gồm trồng trọt – bảo vệ thực vật, chăn nuôi – thú y, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi – phòng chống thiên tai.

     

    Trong đó, tại lĩnh vực chăn nuôi – thú y, Việt Nam sẽ tập trung nghiên cứu chọn tạo giống vật nuôi chủ lực có năng suất, phục vụ chăn nuôi nông hộ, trang trại; nghiên cứu sản xuất các loại vaccine, thuốc thú y thế hệ mới, các loại thức ăn chăn nuôi, thức ăn bổ sung thay thế thức ăn thô…

     

    Ở lĩnh vực thủy sản, Việt Nam nghiên cứu làm chủ công nghệ về giống thủy sản chủ lực, sinh trưởng nhanh, kháng bệnh, chống chịu mặn; nghiên cứu dự báo dịch bệnh, làm chủ công nghệ vaccine; nghiên cứu, phát triển công thức thức ăn thủy sản.

     

    Lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật sẽ tập trung vào nghiên cứu giống cây trồng chủ lực; bảo tồn, phục tráng, phát triển các giống cây trồng bản địa.

     

    Tại lĩnh vực lâm nghiệp, nghiên cứu chọn, tạo và chuyển giao các giống cây trồng lâm nghiệp chủ lực để trồng rừng gỗ lớn, rừng phòng hộ, rừng ngập mặn; cây lâm sản ngoài gỗ có năng suất, chất lượng; nghiên cứu xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định trong tiếp cận cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon.

     

    Trong lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai, Việt Nam tập trung phát triển công cụ hỗ trợ điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, an toàn hồ đập, năng lực quản lý vận hành công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai.

     

    Đề xuất về hướng hợp tác nghiên cứu với Australia, bà Thủy cho rằng, hai bên cần xây dựng mối liên kết hợp tác lâu dài giữa các trường đại học ngành nông nghiệp của Việt Nam và Australia để trao đổi sinh viên và giảng viên, hợp tác nghiên cứu khoa học.

     

    Bên cạnh đó, hai bên nên định kỳ tổ chức hội nghị chuyên gia, hội thảo khoa học giữa hai nước để thảo luận về các vấn đề ưu tiên nghiên cứu mà hai nước quan tâm. Từ đó, hình thành các nghiên cứu chung, đồng tài trợ theo nguyên lý cùng thắng. Xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn, dài hạn, sau đại học, sau tiến sỹ để phát triển nhóm cán bộ chuyên sâu.

     

    Đồng thời, thương mại hóa các sản phẩm khoa học của hai nước, xây dựng cơ chế chung để kết nối các doanh nghiệp vừa và nhỏ của hai bên và thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ từ Australia vào Việt Nam…

     

    Trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của hai bên, bà Thủy cho rằng, trong giai đoạn tới có thể cân nhắc ưu tiên hợp tác về nghiên cứu, chọn tạo và phát triển các giống cây trồng chủ lực thích ứng với hạn, mặn; bảo tồn, phục tráng, khai thác và phát triển các giống cây trồng bản địa, đặc hữu. Nghiên cứu chọn tạo giống vật nuôi chủ lực có năng suất, chất lượng cao. Nghiên cứu, phát triển công thức thức ăn thủy sản, công nghệ nuôi biển, bảo vệ đa dạng sinh học; phát triển hệ thống nông lâm kết hợp với chuỗi giá trị phù hợp với từng vùng sinh thái…

    LÊ HỒNG NHUNG

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.