Protein là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự tăng trưởng và phát triển của heo. Các nguồn protein chính trong khẩu phần ăn của heo là thực vật, bao gồm bột đậu nành, bột hạt cải dầu, bột hạt hướng dương, bột hạt bông vải và đậu Hà Lan. Các nguồn protein có nguồn gốc từ động vật như các sản phẩm máu sấy phun, bột thịt và xương, và bột cá cũng có thể được sử dụng trong khẩu phần ăn của heo. Bột đậu nành là nguồn protein hàng đầu cho heo do chất lượng vượt trội và cấu hình axit amin của nó. Bột đậu nành thường là cơ sở để so sánh các nguồn protein thực vật thay thế.
Các nguồn protein động vật thường ngon miệng và chứa các axit amin có độ tiêu hóa cao, nhưng sự thay đổi về thành phần thường lớn hơn so với các nguồn protein thực vật. Quyết định lựa chọn nguồn protein cho khẩu phần ăn của heo phải xem xét nhiều yếu tố, bao gồm cấu hình axit amin và khả năng tiêu hóa, hàm lượng năng lượng, sự hiện diện của các yếu tố chống dinh dưỡng, sự thay đổi về nồng độ chất dinh dưỡng, khả năng cung cấp liên tục một thành phần chất lượng cao, chi phí và mục tiêu sản xuất. Hàm lượng và khả năng tiêu hóa của lysine thường quyết định giá trị của một nguồn protein vì đây là axit amin hạn chế nhất trong hầu hết các khẩu phần ăn của heo.
Các nguồn protein thực vật cung cấp hầu hết protein trong khẩu phần ăn của heo và bột đậu nành là nguồn protein hàng đầu. Tuy nhiên, bột đậu nành có thể không phù hợp để cho ăn như nguồn protein duy nhất trong giai đoạn cai sữa sớm. Heo có phản ứng quá mẫn tạm thời với bột đậu nành do các protein gây dị ứng, cụ thể là glycinin và β-conglycinin, và carbohydrate không tiêu hóa của đậu nành. Heo trải qua giai đoạn hấp thụ chất dinh dưỡng kém và hiệu suất tăng trưởng thấp sau lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu phần ăn có hàm lượng bột đậu nành cao (Li et al., 1990). Các tác động này chỉ là tạm thời và heo phát triển khả năng chịu đựng sau 7 đến 10 ngày (Engle, 1994). Để giảm bớt các tác động trong giai đoạn này, heo được thích nghi dần với các khẩu phần ăn có hàm lượng bột đậu nành tăng dần sau khi cai sữa. Hơn nữa, bột đậu nành có thể được chế biến thêm để loại bỏ các hợp chất gây dị ứng và cải thiện khả năng sử dụng protein đậu nành của heo con cai sữa (Jones et al., 2010).
Bột gluten ngô và thức ăn từ gluten ngô là hai sản phẩm phụ của quá trình chế biến ngô có thể được sử dụng làm nguồn protein trong khẩu phần ăn của heo. Bột gluten ngô chứa ít chất xơ hơn so với bột đậu nành. Tuy nhiên, bột gluten ngô và thức ăn từ gluten ngô không phải là nguồn protein hoàn chỉnh và phải được bổ sung lysine, methionine và threonine. Đậu Hà Lan là một nguồn protein thay thế tuyệt vời cho heo, chứa 22-25% protein thô, 1,6% lysine, 1% chất béo và 13% chất xơ trung tính không hòa tan. Bột gia cầm, thu được từ các nhà máy giết mổ gia cầm, chứa 65% protein thô và 4,0% lysine và một lượng tryptophan hạn chế.
Tóm lại, protein là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự tăng trưởng và phát triển của heo và việc lựa chọn nguồn protein cho khẩu phần ăn của heo phải xem xét nhiều yếu tố, bao gồm cấu hình axit amin và khả năng tiêu hóa, hàm lượng năng lượng, sự hiện diện của các yếu tố chống dinh dưỡng, sự thay đổi về nồng độ chất dinh dưỡng, khả năng cung cấp liên tục một thành phần chất lượng cao, chi phí và mục tiêu sản xuất. Các nguồn protein thực vật cung cấp hầu hết protein trong khẩu phần ăn của heo và bột đậu nành là nguồn protein hàng đầu. Tuy nhiên, các nguồn protein có nguồn gốc từ động vật thường ngon miệng và chứa các axit amin có độ tiêu hóa cao. Bột gluten ngô, thức ăn từ gluten ngô, đậu Hà Lan và bột gia cầm là các nguồn protein thay thế có thể được sử dụng trong khẩu phần ăn của heo.
Nguồn: AcareVietnam
- nhu cầu protein ở vật nuôi li>
- nguồn prôtêin thay thế li>
- protein li>
- protein thô li> ul>
- Lumigard Most: Giải pháp sức khỏe đường ruột cho động vật dạ dày đơn
- Nuôi thỏ lai, thu lợi nhanh
- Tản mạn ngành heo từ trang trại đến bàn ăn
- Bình Phước: Xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh động vật để mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu
- 5 thách thức lớn trong năm 2025 với ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi toàn cầu
- Hiệu quả các chuỗi liên kết trong chăn nuôi
- Chẩn đoán và xử lý các bệnh do prion trong thú y
- Sáng kiến toàn cầu trị giá 27,4 triệu USD giảm khí methane từ chăn nuôi
- Dịch tễ học bệnh prion trong quần thể động vật nuôi và hoang dã
- Tình hình nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì 3 tháng đầu năm 2025
Tin mới nhất
T3,22/04/2025
- Lumigard Most: Giải pháp sức khỏe đường ruột cho động vật dạ dày đơn
- Đón đọc Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam số tháng 4 năm 2025
- Nuôi thỏ lai, thu lợi nhanh
- Tản mạn ngành heo từ trang trại đến bàn ăn
- Bình Phước: Xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh động vật để mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu
- 5 thách thức lớn trong năm 2025 với ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi toàn cầu
- Hiệu quả các chuỗi liên kết trong chăn nuôi
- Chẩn đoán và xử lý các bệnh do prion trong thú y
- Sáng kiến toàn cầu trị giá 27,4 triệu USD giảm khí methane từ chăn nuôi
- Dịch tễ học bệnh prion trong quần thể động vật nuôi và hoang dã
- Lumigard Most: Giải pháp sức khỏe đường ruột cho động vật dạ dày đơn
- Olmix Asialand Việt Nam và Gia cầm Hòa Phát: Ký biên bản ghi nhớ hợp tác chiến lược về chăm sóc sức khỏe vật nuôi
- Chẩn đoán sức khỏe đường ruột nhanh chóng với công nghệ tiên tiến từ Orffa & Florates
- VIV ASIA 2025: Giao thoa công nghệ và cơ hội đưa ngành chăn nuôi Việt Nam vươn tầm quốc tế
- Tannin thủy phân: Giải pháp hoàn hảo cho hệ tiêu hóa khỏe mạnh
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
Bình luận mới nhất